Trung Hoa bùng lên. Giống như nhiều chuyên gia Đông Nam Á, sự lo lắng
của Moffat trước sự đe doạ của cộng sản đã đưa chính sách đối ngoại của
Mỹ trệch khỏi con đường truyền thống xưa nay ủng hộ những khát vọng
dân tộc trong vùng, ông đã lên tiếng về những mối lo này trong Bộ Ngoại
giao. Nhưng, trước những bối rối của Moffat, có một thực tế là báo cáo của
ông ta quy cho chính phủ Hà Nội có đặc tính cộng sản đã có ảnh hưởng tới
Washington. Trong một thông tri gửi cho những phái bộ Mỹ toàn thế giới
ngày 17-12-1946, lặp đi lặp lại bình luận của Moffat về đặc tính cộng sản
của chính phủ Việt Nam, kết luận, sự hiện diện của Pháp trong vùng này là
quan trọng, “không những để trừ bỏ ảnh hưởng của Liên Xô, mà còn bảo
vệ Việt Nam và Đông Nam Á trước chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc trong
tương lai”.
D'Argenlieu về Pháp ngày 13-11-1946 để kiếm thêm quân cho chiến dịch
đánh phủ đầu lực lượng Việt Minh ở miền Bắc, ông nhận thấy chính phủ
Pháp vẫn chưa từ bỏ giải pháp chính trị. Tổng tuyển cử đã đưa trở lại đa số
cánh tả và Georges Bidault đang chuẩn bị từ chức giao chính phủ cho Đảng
Xã hội mới thắng cử. Bidault đã hứa với d'Argenlieu việc tăng quân, nhưng
ông cảnh báo, Đông Dương không thể giữ được chỉ bằng quân sự. Ông nói,
những chỉ thị sau này, cần phải chờ đến khi thành lập một chính phủ mới.
Chính phủ Pháp cử Jean Sainteny làm toàn quyền thay thế tướng Morlière.
Sainteny rời Paris đi Sài Gòn ngày 23 tháng 11, vài giờ sau sự kiện Hải
Phòng. Sau vài ngày tại Sài Gòn (theo yêu cầu của Valluy, muốn chia xẻ
trách nhiệm với Sainteny về sự kiện Hải Phòng), Sainteny đến Hà Nội ngày
2-12-1946. Trong túi ông là bản chỉ thị của d'Argenlieu, người vẫn đang ở
Paris:
“Danh dự quân sự đã được bảo vệ, uy tín của Pháp đang tăng, không
nên làm tình hình căng thẳng.
Đừng ép Hồ Chí Minh và chính phủ của ông ta phải hành động liều lĩnh.
Với những lý do trên, tôi cho rằng ông không nên ở trong dinh Toàn quyền,
dễ bị coi là hành động khiêu khích và quay trở lại phương pháp thống trị
cũ”.