giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần
chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận, cho phép Thủ tướng
Pháp, ông Pierre Mendes France, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả
cho việc quân Pháp rút. Ông Chu còn hứa “Khi quân Pháp rút hoàn toàn,
toàn bộ Việt Nam là của các bạn”.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự thì có những
tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Eisenhower
đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Geneva và quyết định không chấp nhận
các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an
toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử
tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn,
Washington bắn tin sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không
cam kết ủng hộ Hiệp định Geneva. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như
vậy, không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận, quyết định chia cắt
đất nước là của chính quyền thực dân chứ không phải là nguyện vọng của
nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao
Mỹ Dullet thông báo tại một cuộc họp báo, Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển
của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia.
Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc Tổng
tuyển cử trong tương lai.
Nhiều quan sát viên tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái
đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản
bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bỉnh Nam, một nhà ngoại
giao Trung Quốc sau này nói, một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt
Nam được ngay”.
Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt
Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng
nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo
chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vài ngày trước khi Hiệp
định Geneva được ký kết, ông Hồ viết: