Vả lại, số lượng những ngày đó chỉ là quy định ước chừng, còn trên thực tế
hầu như không có hạn định. Một phần lớn dân cư đã bị huy động vào việc
làm đường, đào kênh và không có bất kỳ một thứ công sá nào hết. Số người
dân bản xứ chết vì những công việc ấy thật rất lớn; 3) nô lệ, đúng theo nghĩa
đầy đủ của từ, họ bị bán và bị mua. Trong việc mua bán này, chính quyền
thực dân đã trở thành bọn chủ kinh doanh. Giống như thời chiến tranh, chính
quyền thực dân đã tuyển dân bản xứ làm lính - tình nguyện, thì bây giờ chúng
lại mộ công nhân - tình nguyện đi các thuộc địa Pháp khác, chủ yếu cho các
đảo ở Thái Bình Dương. Những người An Nam này đến đó bị bán cho bọn
chủ đồn điền và chủ nhà máy người châu Âu.
Có một bức thư, đã đăng khắp Đông Dương và đề ngày 17 tháng 3 năm
1924, nói về những tai hoạ khủng khiếp do bệnh sốt rét gây ra trong số những
người nô lệ đã bị đưa tới đảo Êbrít
1)
, bức thư yêu yêu cầu phải chấm dứt
cái hệ thống bóc lột vô liêm sỉ đối với tình trạng tăm tối của người dân bản
xứ.
Giai cấp vô sản không thể làm gì để chống lại cái hệ thống bóc lột đó,
chưa có một tổ chức công nhân nào cả. Bộ luật thuộc địa do những nhà khai
hoá Pháp soạn ra chính là để đàn áp bất kỳ một biểu hiện nào có tính tự chủ
của người dân bản xứ nói chung và tầng lớp vô sản nói riêng. Theo bộ luật
đó, người An Nam không có quyền xuất bản báo chí bằng tiếng mẹ đẻ, không
có tự do hội họp và lập hội, bị tước đoạt cả quyền tự do đi lại từ tỉnh này sang
tỉnh khác. Để bảo vệ những luật pháp đó thì có toà án gồm 5-6 quan lại Pháp,
chúng xử kín và tuyên án, kể cả án tử hình.
Trước chiến tranh, người An Nam có tổ chức vài hợp tác xã, nhưng
chính quyền thực dân đã giải tán chúng, bắt giam những người tổ chức vì
nghi là tuyên truyền cách mạng.
Thưa các đồng chí, tình cảnh công nhân An Nam là như thế. Đó là một
tình cảnh khủng khiếp, nhưng không phải là không có lối thoát. Tình hình
không phải là không có lối thoát, bởi vì với sự giúp đỡ của các tổ chức cách
mạng gần gũi với Quốc tế Công hội đỏ,