Mặc dù họ cho rằng người phụ nữ đã phải chịu sự đảo lộn về tâm sinh lý do
những thay đổi về hormone xảy ra trước thời kỳ kinh nguyệt. Hội chứng
PPDS cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Những nghiên cứu về sự liên quan
giữa hội chứng này và tội ác khá mờ nhạt cho dù người ta biết chắc rằng nó
hiện hữu. Thông thường, người ta chỉ viện dẫn hai hội chứng này để bào
chữa cho thân chủ tại tòa án. Nhưng cũng rất ít khi có hiệu quả bởi bồi
thẩm đoàn khó có thể nhẹ tay với một kẻ giết hại con đẻ của mình vì bất kỳ
lý do nào. Bên cạnh hai hội chứng trên, nguyên nhân hàng đầu gây ra sự
phạm tội ở nữ giới có thể là do bị bạo hành (cả thể xác và tâm hồn) hoặc
quá lạm dụng ma túy và rượu. Nói chung những nghiên cứu về nữ tội phạm
cho đến nay không nhiều bởi trên thực tế số tội phạm nữ giới thường ít hơn
nhiều so với nam giới. Theo thống kê, tại Mỹ, số thủ phạm nữ chỉ chiếm
không đến 10% số kẻ giết người hàng loạt.
Có quá nhiều yếu tố có thể đẩy con người vào con đường phạm pháp:
gen di truyền, chế độ dinh dưỡng, những biến động xã hội, bệnh tâm thần...
Song có thể khẳng định không một nguyên nhân đơn lẻ nào có thể giải
thích cho mọi loại tội ác. Động cơ phạm tội của dạng tội phạm cổ cồn trắng
rõ ràng rất khác so với một tên dâm tặc. Các nhà nghiên cứu kết luận: tội ác
là một chủ thể vô cùng phức tạp bao gồm quá ít hiện tượng có thể giải thích
và đứng đàng sau nó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố. Ngày nay quá trình
xây dựng các học thuyết về tội ác vẫn đang được tiếp tục. Một số nghiên
cứu gần đây còn khẳng định mối liên hệ giữa thời tiết và tội ác. Đơn cử như
sự tương quan kỳ lạ giữa chu kỳ hoạt động của Mặt trăng và tỉ lệ tăng giảm
của các vụ án mạng tại Miami và Cleveland. Một vài số liệu thống kê còn
cho thấy các vụ trộm thường hay diễn ra trong những tháng mùa hè. Tóm
lại, nghiên cứu tội ác để phòng chống là điều cần thiết. Còn cách phòng
tránh tốt nhất? Xin mượn lời nhà tội phạm học nổi tiếng Samuel Walker:
"Về lâu dài, gia đình, tình làng xóm và việc làm chính là những yếu tố căn
bản để làm giảm tội ác".