Buổi chiều u ám đó vẫn chưa chấm dứt đối với tôi. Bắt cào cào xong, tôi lại phải theo thằng
Bá ra ngồi câu cá ngoài bờ ao. Tôi giống như người lỡ leo lên lưng cọp, đành nhắm tịt mắt
cho nó muốn đưa đi đâu thì đưa, chứ đâu có gan nhảy xuống nửa chừng.
Trong khi tôi rầu thúi ruột thì Bá mặt mày tươi hơn hớn. Nó hí hửng giựt lia lịa, hết con cá
này đến con cá khác. Thấy tôi trầm tư như Lã Vọng, ngồi cả buổi chẳng câu được con cá nào,
nó chép miệng động viên:
- Ráng lên đi chứ! Bắt chước tao đây nè!
Vừa nói, Bá vừa giựt cần câu đánh "vút" một cái. Tôi ngó lên, thấy một con cá rô đang vùng
vẫy ở đầu sợi cước.
Thật ra, tài nghệ câu cá của tôi đâu có kém gì Bá. Mọi bữa tôi cũng giựt lia giựt lịa. Cá dưới
ao thằng Nghị là cá nuôi, chúng bơi dày mặt nước, thả mồi xuống là chúng tranh nhau đớp,
câu tụi chúng còn dễ hơn là ra mua ngoài chợ.
Nhưng từ nãy đến giờ, mặc cho tụi cá rỉa mồi, tôi không buồn giựt. Tôi lơ đãng ngắm cái
phao điên điển của tôi đang bị tụi cá kéo chạy qua chạy lại vùn vụt trên mặt nước như chiếc
ca-nô máy, lòng bâng khuâng nghĩ đến nhỏ Hồng.
Ngữ đã dặn tôi, cứ chiều chiều ra ngồi ngoài bờ ao nghĩ đến nhỏ Hồng, sẽ thấy da nó trắng
như giấy pơ-luya, sẽ bồn chồn thương nhớ nó và sẽ viết được những câu thơ tràn đầy cảm
xúc. Ngữ còn bảo tôi, người xưa cũng hay ra đứng bên bờ ao để sáng tác. Họ còn ra ban đêm
nữa kia. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, Ngữ liền đọc ca dao minh họa: "Đêm đêm ra đứng bờ ao.
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ...". Nghe xong, tôi hết ngờ vực ngay. Và tôi phục "người
xưa" sát đất. Họ đứng suốt đêm bên bờ ao để làm thơ mà không sợ mỏi chân. Cũng không
sợ
muỗi cắn. Hèn gì họ làm thơ hay ghê!
Tôi chẳng được như họ. Ban đêm tôi không dám lần mò ra bờ ao. Tôi sợ rắn cắn. Tôi chỉ
dám ra buổi chiều. Tôi cũng không thèm đứng. Tôi ngồi bệt xuống trên cỏ, khỏi sợ mỏi chân.
Và tôi chẳng thấy tứ thơ nào lảng vảng trong đầu như lời Ngữ nói cả. Cứ nghĩ đến nhỏ Hồng
là tôi hết muốn làm thơ. Tôi chỉ muốn suỵt chó cắn nó.