danh tiếng của Văn phòng cả trong và ngoài nước. Tồi tệ và đáng xấu hổ
nhất là vụ xe buýt số 300. Vào tháng 4 năm 1984, chiếc xe buýt số 300,
đang trên đường từ Tel Aviv hướng về phía nam của thành phố Ashkelon, bị
bốn tay lính Palestine tấn công. Hai tên bị bắn chết trong cuộc giải cứu con
tin của quân đội Israel, hai tên còn sống sót được đưa vào một đồng lúa mì
gần đó và không bao giờ thấy quay trở ra. Sau đó, người ta phát hiện rằng
những tên cướp đó bị đánh đến chết bởi những nhân viên Shabak thi hành
theo mệnh lệnh cấp trên. Hàng loạt vụ bê bối tiếp theo, lần lượt phơi bày
những hành động tàn bạo của Shabak: bạo lực, cưỡng bức nhận tội, tối hậu
thư và lừa gạt. những kẻ biện hộ cho Shabak huênh hoang rằng việc thẩm
vấn những kẻ khủng bố bị tình nghi không thể tiến hành nhẹ nhàng như mời
một tách cà phê được. Bất chấp mọi chuyện tai tiếng, Shabak vẫn không hề
thay đổi. Shabak không muốn bắt những kẻ khủng bố sau khi máu đã đổ.
Họ muốn ngăn chặn ngay từ đầu, muốn đẩy lùi những âm mưu tấn công, và,
nếu có thể, uy hiếp thanh niên Arập để họ rút tay ra khỏi các hoạt động
khủng bố.
Yaakov đột ngột thắng gấp để tránh đâm sầm vào chiếc xe tải đang chầm
chậm băng qua. Anh tức tối nhá đèn xe và ấn mạnh còi ô tô. Chiếc xe tải di
chuyển sang làn đường khác. Khi Yaakov chạy vụt qua chiếc xe đó, Gabriel
liếc nhìn, anh thấy hai người Haderim(người Do Thái chính thống) đang
thản nhiên nói chuyện như chưa có chuyện gì xảy ra.
Yaakov ném cái mũ trùm đầu kippah vào lòng Gabriel. Nó khá rộng và
lỏng, cùng với những hoạ tiết màu cam pha màu hổ phách điểm trên nền
đen. Gabriel hiểu ý nghĩa của những hoạ tiết đó.
“Nếu không có nhân viên an ninh Palestine hay tay lính Hamas nào canh
gác tại trạm kiểm soát, chúng ta sẽ vượt qua giới tuyến như những người
nhập cư”.
“Vậy chúng ta sẽ khai là từ đâu đến?”.
“Kiryat Devorah”. Yaakov trả lời. “Một nơi nào đó trong thung lũng
Gioócđan mà cậu sẽ chẳng bao giờ đặt chân đến đó”.