Năm 1960, chúng tôi thay đổi luật chống tham nhũng đã lỗi
thời của năm 1937 và mở rộng định nghĩa về quà cáp để chỉ bất
cứ thứ gì có giá trị. Sự sửa đổi này nới rộng quyền lực của các
điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài khoản
ngân hàng, sổ ghi tiền gởi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi
cũng như của vợ, con và thuộc hạ của họ. Việc chứng tỏ rằng
người nhận hối lộ đang ở một vị trí thực hiện sự thiên vị theo
yêu cầu trở nên không cần thiết. Người quản lý thuế thu nhập
buộc phải đưa những thông tin có liên quan tới bất kỳ ai đang bị
điều tra. Luật hiện hành quy định rằng chứng cứ do kẻ đồng
phạm khai ra không có giá trị tin cậy trừ phi được chứng minh.
Chúng tôi đã thay đổi, cho phép các quan tòa chấp nhận lời khai
của kẻ đồng phạm là chứng cứ.
Thay đổi hiệu quả nhất mà chúng tôi thực hiện năm 1960 là
cho phép quan tòa xem những chứng cứ cho thấy kẻ bị tố cáo
đang sống ở mức sống vượt quá khả năng kinh tế của anh ta
hoặc có những tài sản mà thu nhập của anh ta không thể giải
thích là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo
đã nhận hối lộ. Với sự nhạy bén, tinh tế và quyền hạn được điều
tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ trưởng nào, vị giám đốc của CPIB,
đang làm việc tại Phủ Thủ tướng, nổi danh trong việc phát hiện
ra những kẻ phản bội lại lòng tin của nhân dân.
Năm 1963, chúng tôi thực hiện việc bắt buộc các nhân
chứng, được triệu tập bởi CPIB, phải có mặt để cung cấp thông
tin. Năm 1989, chúng tôi tăng tiền phạt tối đa đối với tội tham
nhũng từ 10.000 đôla Singapore lên đến 100.000 đôla
Singapore. Cung cấp thông tin giả hoặc lừa dối CPIB sẽ bị phạt tù
và số tiền nộp phạt lên đến 10.000 đôla Singapore, các quan tòa
được quyền sung công những khoản tiền có nguồn gốc từ tham
nhũng.