Tiền của Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines có liên
quan chặt chẽ với đôla Mỹ. Lãi suất đôla Mỹ thấp hơn nhiều so
với lãi suất tiền trong nước của họ. Khi đồng đôla Mỹ suy yếu,
hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn và xuất khẩu tăng. Khi đôla Mỹ
bắt đầu mạnh từ giữa năm 1995, hàng xuất khẩu của Thái trở
nên đắt đỏ và xuất khẩu giảm.
Các công ty Thái đã vay tiền
bằng đôla Mỹ, cho rằng tỷ giá hối đoái sẽ giữ nguyên ở mức xấp
xỉ lúc vay vào thời điểm họ hoàn trả tiền vay. Nếu tỷ giá thả nổi
thì các công ty này hẳn đã cân nhắc về nguy cơ sụt giá đồng
baht trước khi quyết định vay bằng đồng tiền có lãi suất thấp
hơn. Những người cho vay nước ngoài sẽ không tin tưởng đến
thế về khả năng hoàn trả của người vay trong trường hợp phải
đối mặt với sự thay đổi đột ngột của tỷ giá hối đoái.
Năm 1996, một số giám đốc ngân hàng Mỹ có cơ sở tại
Singapore thảo luận với tôi một vài lời khuyên của họ đối với các
giám đốc ngân hàng trung ương Thái và các nước Asean khác về
những nguy cơ của việc kiểm soát tỷ giá hối đoái và lãi suất khi
họ không còn những hạn chế trong việc lưu thông tiền vốn nữa.
Họ đề xuất một tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Các giám đốc ngân
hàng trung ương đã không lưu tâm đến lời khuyến cáo này và
sự thâm hụt trong các tài khoản vãng lai của họ gia tăng.
Từ năm 1995, Thái đã có sự thâm hụt lớn trong tài khoản
vãng lai, nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Nếu tình trạng này
tiếp diễn họ sẽ không có đủ ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Do
vậy, những nhà kinh doanh ngoại hối bắt đầu bán baht, đoán
trước những khó khăn mà ngân hàng trung ương Thái sẽ đối
mặt để giữ đồng baht ở mức tỷ giá hối đoái cao so với đồng đôla
Mỹ. Một khi những người bán khống
giám đốc các quỹ đầu tư có danh tiếng cũng tham gia với họ bán
hạ giá các loại tiền tệ của Malaysia, Indonesia, Philipin cũng như