động kháng Nhật của họ mạnh hơn nên Đảng Cộng sản Trung
Quốc lôi kéo được một sự ủng hộ mạnh mẽ hơn từ phía công
nhân và nông dân Trung Quốc.
Sự ra đời của nước Trung Quốc cộng sản trong năm 1949 đã
truyền lòng tự hào yêu nước sâu sắc dâng tràn trong cộng đồng
những người trí thức người Hoa vì họ đang trông đợi sự xuất
hiện của một Trung Quốc hùng mạnh có thể xóa bỏ cho họ sự
nhục nhã và ách nô lệ của nước Anh và các nước châu Âu khác.
Mặt khác, nó khơi dậy sự lo sợ nằm sâu trong lòng những người
Malay, người Ấn, người Hoa học trường Anh, và một thiểu số trí
thức người Hoa ủng hộ Quốc Dân Đảng. Năm 1949 cả hai Đảng
KMT và CCP bị cấm hoạt động ở Singapore nhưng sự phân chia
cộng đồng dân cư giữa hai đảng vẫn tồn tại.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa muốn tăng cường lòng trung
thành của người Hoa ở hải ngoại dành cho Bắc Kinh. Năm 1949,
họ đã thành lập một Ủy ban Kiều bào và bắt đầu những chương
trình phát thanh. Ủy ban này ủng hộ giáo dục bằng tiếng Hoa ở
nước ngoài và khuyến khích người Hoa ở Nanyang gửi các con
trai của họ về quê hương Trung Quốc học tập và gửi tiền về cho
thân nhân của họ. Họ còn kêu gọi các bác sĩ, kỹ sư, giáo sư có
trình độ trở về và giúp tái thiết quê nhà. Điều này đã là một
thách thức mang tính lật đổ đối với các chính phủ thực dân và
các chính phủ mới giành được độc lập của Đông Nam Á như ở
Indonesia, và sau đó là Malaya. Đài phát thanh Bắc Kinh, tờ
Nhân Dân Nhật báo và tờ Tạp chí Bắc Kinh thường xuyên lên án
Malaysia là công cụ của chủ nghĩa thực dân mới để ngược đãi
những người dân có nguồn gốc Trung Quốc.
Tunku và các vị lãnh đạo Malay khác quan ngại ảnh hưởng
của Bắc Kinh đối với Đảng Cộng sản Malaysia và đông đảo người
dân nói tiếng Hoa của nước họ. Năm 1963, khi Chu Ân Lai viết