dinh thự đẹp đẽ chung quanh, họ trông tiều tụy và nghèo khổ.
Tôi quy tất cả những điều này cho chế độ phong kiến lỗi thời đã
bần cùng hóa người nông dân và dành của cải cho tầng lớp quý
tộc. Tôi không cảm thấy lạc quan cho tương lai của đất nuớc
này.
Từ Addis Ababa tôi bay tới Aden để tiếp nhiên liệu trước khi
tới New Delhi. Aden đang khổ sở vì cuộc nội chiến, khi người
Anh chuẩn bị rút lui. Các biện pháp an ninh rất nghiêm ngặt
quanh phi trường, với những dây thép gai và lính đứng gác ở
những vị trí trọng yếu, và qua việc nói chuyện với các sỹ quan
không quân hoàng gia Anh trong khi đợi ở đó, tôi có thể cảm
giác được một tình trạng khẩn cấp.
Ở Delhi tôi giật mình khi thấy Nehru già đi nhiều so với lúc
tôi gặp ông lần đầu vào tháng 4/1962. Ông ta trông mệt mỏi và
khó tập trung tư tưởng. Cuộc chiến tranh biên giới tháng
12/1962 giữa quân đội Ấn Độ và Trung Quốc bên kia Hymalaya
gần Ladakh đã là một thảm họa. Nó đã phá hủy tất cả những gì
ông đã hy vọng và chiến đấu để giành lấy. Ông cũng đã giới
thiệu Chu Ân Lai với các lãnh tụ Á Phi ở Hội nghị Bandung năm
1955
để báo trước một thời kỳ mới của tình đoàn kết Á Phi.
Giấc mơ của ông đã biến thành tro bụi. Tôi cảm thông với ông.
Ông đã mất đi sức sống và tinh thần lạc quan của mình. Các Bộ
trưởng và viên chức của ông tiếp chúng tôi với sự nồng nhiệt và
lòng mến khách, và các phái đoàn của họ ở châu Phi thật hữu
ích.
Điểm dừng kế tiếp của tôi là Kuala Lumpur chứ không phải
Singapore, vì tôi còn phải báo cáo cho Tunku. Ông ta hài lòng vì
thấy tôi đã ngăn chặn và đánh trả được sự tuyên truyền của
Sukarno trên mặt trận Á Phi, và cuộc họp báo của tôi được phát
đầy đủ trên đài truyền hình Kuala Lumpur. Tôi nói rằng