giới bên ngoài trong những năm 1970 thì sức lôi cuốn của chủ
nghĩa cộng sản đối với họ mới giảm đi.
Trong khi đó, sự phô bày lòng sự hy sinh quên mình ở các
cán bộ lãnh đạo càng làm tăng thêm huyền thoại. Sau việc suốt
ngày bận rộn với các bài diễn văn và tranh đấu với các tay chủ
độc ác, Lim Chin Siong và Fong sẽ gục ngủ tại bàn làm việc ở trụ
sở trung ương của nghiệp đoàn. Kiểu sống khắc khổ quên mình
của họ tác động dữ dội vào những người theo họ, những kẻ tích
cực noi gương của họ, truyền cho nhau tinh thần hy sinh ấy.
Ngay cả những học sinh con nhà giàu, những kẻ không phải là
lực lượng nòng cốt cũng muốn đồng hóa mình với Lim và Fong.
Con trai của một ông chủ công ty xe buýt đã dành hầu hết thời
gian làm việc như một tài xế không lương cho họ, bằng chiếc xe
của gia đình cậu ta. Đó là phần đóng góp cho lý tưởng của cậu ta.
Cậu ta tự hào vì được đi cùng những cán bộ cách mạng, những
người quần áo giản dị, ăn uống lề đường, nhận mức lương rất ít
cho bản thân bởi vì bất cứ cái gì thu được từ bọn chủ đều dành
cho công nhân. Họ đã bỏ túi bao nhiêu để nuôi dưỡng thêm
những phần tử cách mạng thì tôi không hề biết, nhưng tôi
không hề thấy họ nhận bất cứ cái gì cho bản thân – chắc chắn họ
không sống như họ đã sống.
Có một sự thi đua về lòng quên mình lan tràn trong cả thế hệ
ấy; bạn càng quên mình thì càng gây ấn tượng với quần chúng,
và càng có nhiều khả năng bạn sẽ được thăng tiến trong tổ chức,
từ Hội Bài Anh đến MCP, một đảng cộng sản giữa một cuộc cách
mạng. Với những kẻ ủng hộ như thế, đảng cộng sản có thể tiến
hành những kỳ tranh cử mà không cần nhiều tiền lắm – không
hề thiếu công nhân hay người vận động bỏ phiếu, và vải làm
biểu ngữ thì do những người ủng hộ nhiệt tình biếu không. Tôi
đoán là các ông chủ nhà in cũng in những tài liệu tranh cử giùm