nghĩa nhân văn và chủ nghĩa xã hội, và ông thể hiện sự ủng hộ
Malaysia qua cách nói thẳng thắn. Từ lần gặp đầu tiên, tôi đã
thích ông ta vì cách ăn mặc, cử chỉ và lối sống giản dị. Ông mời
tôi ở trong dinh Tổng thống, trước kia dành cho viên thống sứ
Anh và trước Thế chiến thứ nhất là chỗ ở của quan cai trị người
Đức. Riêng ông ta thì thích sống trong một ngôi nhà nhỏ gần đó.
Ông ta mời các Bộ trưởng Ấn Độ đến dùng cơm, nêu rõ quan
điểm rằng, không như các quốc gia Đông Phi khác, ông ta có
một chỗ dành cho họ ở Tanganyika. Nhưng tiếc thay, tinh thần
Fabian và xu hướng tập quyền của ông ta, xuất phát chủ yếu từ
các cuộc thảo luận với các lãnh tụ chống thực dân khác và
những người theo chủ nghĩa xã hội Anh có thiện chí mà ông ta
gặp ở Anh, đã khiến cho đất nước của ông ta rơi vào đói nghèo
một cách không cần thiết.
Khi tôi đến Kampala ở Uganda, Thủ tướng Milton Obote đi
vắng và tôi được các Bộ trưởng đón tiếp. Họ thân thiện và hiểu
biết, một phần nhờ bởi những quan hệ trong Khối thịnh vượng
chung. Có một sự căng thẳng nào đó giữa chính phủ và Kabaka
của Buganda, hay “Vua Freddie” như ông ta được mọi người gọi
như vậy, nhưng dù Obote đã gặp Tunku trong các hội nghị của
Khối thịnh vượng chung và đã nhìn ông ta một cách sai lầm
như một “Vua Freddie” khác, thì điều đó cũng không ảnh hưởng
đến sự ủng hộ của Uganda đối với Malaysia. Họ đồng tình với
Malaysia và không ủng hộ Indonesia.
Chặng dừng kế tiếp, Nairobi, lại quan trọng. Tổng thống
Jomo Kenyatta được mọi người gọi là Mzee, một từ dùng để chỉ
sự tôn kính và sùng bái cao độ dành cho người già. Ông nổi
tiếng khắp thế giới là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã từng
bị giam giữ trong xiềng xích suốt cuộc phiến loạn Mao Mao vào
những năm 1950 chống lại chính phủ Anh và những tên thực