pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả
bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình
hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua
sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu hoa, các
thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói
nhiều… Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.
Bạn đọc thử nghĩ xem, những chữ: “Liễu đình hoa tự”, “Hữu phượng lai nghi”, chỉ là
những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một
nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người
đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác
nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước
cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng
này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem
thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho
hay.
Nguyên là Giả Phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả Phi là
chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả Phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên
rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không
rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả Phi dạy
truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng
chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả Phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần
phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng
nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.
Lòng quyến luyến của Giả Phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm
trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm
vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề, có nhờ
ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng
có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả
Phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả Phi
ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước
chưa đề, về sau đều đề thêm cả.
Giả Phi xem bốn chữ này cười nói:
Hai chữ “Hoa tự” là được rồi, cần gì phải thêm “Liễu đình” nữa?
Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho
viết lại.
Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả Phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoành
viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh”
Giả Phi sai đổi là: “Tinh thân biệt thự”
. rồi
tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm ngát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa
vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ
hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là:
Chốn thần tiên cửa vàng lầu ngọc,
Nhà hoàng phi đền quế, cung lan.
Giả Phi hỏi: Tại sao nơi này không đề biển?