Đặng-Long trước là cận thần, vì không được thăng làm Hàn-lâm-học-sĩ,
căm tức theo hàng với Nguyên, khi sau lại bị bắt được, nghị vào tội trảm
quyết.
Còn quân dân thì thứ tội cho, duy có hai làng: Bàng-hà, Ba-điểm, trước
hết hàng giặc, cả làng phải đồ làm binh lính, không khi nào được làm quan.
Triều-đình khu xử trong việc thưởng, phạt, rất là công minh, quan, dân
ai cũng vui lòng.
Bấy giờ thiên-hạ vô sự, bốn phương thái-bình, kế được mùa luôn mấy
năm, trăm họ vui vẻ. Thượng-hoàng nghĩ đến công đức Hưng-đạo đại-
vương, sai quan về nơi dinh cũ của ngài ở Vạn-kiếp, sửa sang một tòa sinh-
từ, thực là tráng-lệ, để thờ sống Hưng-đạo đại-vương. Thượng-hoàng lại
thân soạn ra một bài văn bia, kể công trạng của ngài, so sánh ngài với Thái-
công-thượng-phụ nhà Chu khi xưa, tứ thời bát tiết, sai quan đem lễ về tận
nơi sinh-từ tế bái.
Tháng năm, năm Canh-dần, thượng-hoàng thăng hà.
Qua sang năm Tân-mão, Nguyên chúa sai Thượng-thư là Trương-lập-
Đạo sang sứ dụ vua vào chầu. Vua liền sai sứ sang cống hiến, xin từ việc
vào chầu. Nguyên chúa ưng nhời, từ đó cứ ba năm một lần sang cống như
thường.
Năm Quí-tị, vua nhường ngôi cho thái-từ, tức là Anh-tôn hoàng-đế.
Anh-tôn lên ngôi, tôn Nhân-tôn lên làm thượng-hoàng, cải niên hiệu gọi
là Hưng-long thứ nhất. (Niên hiệu Chí-nguyên thứ 30 nhà Nguyên, lịch tây
1293.)
Hưng-đạo vương bấy giờ đã già, danh tiếng quyền thế lừng lẫy một
nước, mà từ vua đến dân, ai ai cũng mến đức ngài, dù đến người bên