Chương 19 Cơ hội thứ hai
Khi Doug Blumeyer, sinh viên chuyên ngành Nghiên cứu Phim ảnh và
Truyền thông, tốt nghiệp Đại học Stanford năm 2008,
1
anh tìm cách
làm việc trong lĩnh vực phim ảnh. Anh không thành công trong cuộc
tìm kiếm này. Nhưng anh đã sống trong một thời khắc lịch sử khi có
thể nhận được sự đào tạo chuyên môn về lập trình, một lĩnh vực có
nhu cầu về những kỹ năng của anh, mà không cần phải quay trở lại
trường đại học. Anh được huấn luyện một cách nhanh chóng mà
không phải chịu cảnh nợ nần, và anh vẫn đánh giá cao nền giáo dục
khai phóng mà mình nhận được khi là sinh viên đại học.
Một trăm năm trước, buổi sơ khai của các công ty công nghiệp lớn
và các công ty công nghệ cao, thành lập chương trình đào tạo nội
bộ riêng. Tháng 4 năm 1929, General Electric quảng cáo trên tạp
chí cựu sinh viên Đại học Stanford về “trường khoa học điện sau đại
học”, mỗi năm tuyển 400 sinh viên mới. “Các nhà lãnh đạo tương lai
không chỉ được sinh ra mà còn được tạo ra”, mẫu quảng cáo viết,
và quá trình đào tạo này do các công ty thực hiện, chứ không phải
các trường đại học.
2
Quá trình đào tạo miễn phí mà sinh viên tốt nghiệp nhận có thể kéo
dài trong nhiều năm. Ví dụ, năm 1934, một công ty bảo hiểm đã gửi
đến ban dịch vụ xếp hạng cựu sinh viên Stanford một thông báo
tuyển dụng nhân viên nam – một người thuộc chuyên ngành kinh tế
và người này sẽ trải qua quy trình ba năm đào tạo tại văn phòng để
chuẩn bị cho vị trí bán hàng.
3
Khoa học máy tính không tồn tại vào những năm 1920, tất nhiên, và
chúng ta không thể trực tiếp so sánh thời điểm hiện tại với thời điểm
lúc bấy giờ. Nhưng một sinh viên, giả sử, muốn theo một chương
trình đại học về khoa học nhân văn trọn vẹn, phải dành 4 năm cho
công cuộc này, và sau đó tiếp tục học để lấy bằng sau đại học về