thiết kế thì “nắm bắt sự phức tạp của cuộc sống và đơn giản hóa
chúng nhằm giải quyết vấn đề”. Ông lo lắng rằng, nếu các khóa học
d.school là “để thay thế giáo dục khai phóng truyền thống, thì chúng
ta sẽ mất đi giá trị thực tiễn quý báu của giáo dục cổ điển: Nhìn
nhận bản thân trong hiện thực cuộc sống và ứng phó với một loạt
những điều phức tạp không hoàn hảo.”
32
Một trong những suy ngẫm sau dự án Stanford 2025 là “nhu cầu và
mong đợi sự thay đổi từ các nhà tuyển dụng trong tương lai”, và kỳ
vọng rằng sinh viên mới tốt nghiệp hiện nay sẽ có nhiều nhà tuyển
dụng.
33
Stanford 2025 đã trích lời từ một bài báo trên tạp chí Forbes về tình
trạng nhảy việc, đề cập rằng “công nhân thông thường hiện gắn bó
với công việc của họ trong 4,4 năm; nhưng giai đoạn dự kiến của
những người trẻ nhất trong lực lượng lao động chỉ bằng một nửa
thời gian này.”
34
Bản chất của sự thay đổi công việc không được
xác định rõ ràng, và những người đóng góp ý kiến cho Stanford
2025 không phân tách nhóm người nhảy việc nhiều nhưng vẫn theo
một nghề nhất định với nhóm người nhảy việc và đổi nghề nhiều
lần. Chính nhóm sau mới nhận được lợi ích cao nhất từ nền giáo
dục khai phóng, mà Howard Swearer, nguyên chủ tịch Đại học
Brown, mô tả là “sự chuẩn bị cho những vị trí công việc chưa từng
thực hiện”.
35
Ý tưởng rằng, giáo dục đại học sẽ thực tiễn nhất nếu nó chuẩn bị
cho sinh viên khả năng nắm bắt được những công việc trong tương
lai mà họ chưa từng nghĩ tới, không có gì mới mẻ. Nhưng chúng ta
có thể thấy rõ, rất nhiều nhà tuyển dụng đã không còn đánh giá cao
nền giáo dục cung cấp tốt nhất sự chuẩn bị đó – giáo dục khai
phóng, và cụ thể là những ngành khoa học nhân văn. Những sinh
viên có câu chuyện được kể lại trong cuốn sách này đều may mắn
vì họ tìm thấy cơ hội để chứng minh rằng, họ đã học được cách
học, chuẩn bị cho những đợt bổ nhiệm công việc chưa từng thực
hiện.