ngài dự báo một điều liên quan đến hai vị quan thanh liêm. Nếu nó xảy ra
thì thật tội cho hai vị đó. Ngài hỏi con gái:
- Vậy phải làm gì, chẳng lẽ để hai nhà chuốc vạ?
Bà Thục Trâm đáp:
- Thưa cha, cha nên nghỉ quan về với ruộng vườn và làm thuốc cứu đời là
hơn. Còn với hai nhà, con chưa có gì để nói...
Ngài lại hỏi:
- Sao con lại khuyên cha như vậy?
Bà Thục Trâm thưa:
- Cha thân với cả hai nhà. Hai nhà có chuyện, cha khó mà yên khi ấn còn
trong tay cha. Hơn nữa, tính cha trung thực thẳng thắn, bọn gian ở với
người ngay sao được.
Nghe con gái nhắc nhở chung chung như vậy, ngài Tri huyện nhớ ngay
chuyện cũ mà con gái ngài giữ ý nên không đụng tới. ấy là người thân sinh
ra ông Tú - chồng bà Thục Trâm đồng môn với Tể tướng. Nhưng đường
khoa cử của bố ông Tú rất lận đận. Ba lần lều chõng đi thi, cụ chưa kiếm
được một chân Tú tài. Bù lại, cụ có nghề thuốc rất giỏi. Thế là cụ xếp bút
nghiên theo việc dao cầu. Tuy đã dẽ sang con đường khác nhưng thân sinh
ông Tú vẫn giữ tình với quan Tể tướng.
Năm mười bảy tuổi, bà Thục Trâm thành thân với ông Tú. Ngày hai người
bái đường, Tể tướng cũng đến chúc mừng. Vị quan đầu triều bàng hoàng
bởi dung quang như hoa như ngọc của Thục Trâm. Tể tướng vốn hiếu sắc,
lòng thèm khát bừng lên … Bất ngờ, ông Tú bị chết. Người ta xì xèo về cái
chết của ông Tú trên đường đi thi có bàn tay sắp xếp của Tể tướng. Ông Tú
mất rồi, Tể tướng chắc mẩm sẽ có báu vật của giời đất là giai nhân Thục
Trâm. Tể tướng bèn thăm dò người bạn già đồng môn. Người đẻ ra ông Tú
từ chối khéo: "Việc này là quyền của ngài Tri huyện." Tể tướng liền bắn tin
đến ngài Tri huyện. Nếu ngài Tri huyện thuận tình cho Thục Trâm làm
thiếp của Tể tướng thì đường công danh của ngài Tri huyện sẽ hiển đạt hơn
nhiều. Là người không ưa gì nhân cách của Tể tướng, ngài Tri huyện cứ
ngơ đi. Chờ mãi không có âm tín phản hồi, Tể tướng sốt ruột cho thuộc hạ
mẫn cán tìm tới nhà ngài Tri huyện. Viên quan quyền nghiêng thiên hạ đinh