ninh Tri huyện sẽ làm theo ý của mình. Là người thừa khôn ngoan, ngài
Tri huyện đã trả lời thuộc hạ của Tể tướng rằng: "Con gái tôi đã xuất giá,
mọi việc của Thục Trâm đều do nhà chồng quyết định." Thuộc hạ của Tể
tướng phải mò mẫm đến nhà bố chồng Thục Trâm. Cân nhắc kỹ lưỡng, bố
chồng Thục Trâm nói với thuộc hạ của Tể tướng: "Hễ con dâu tôi bằng
lòng là tôi bằng lòng." Thuộc hạ của Tể tướng bèn gặp bà Thục Trâm. Thấy
bà Thục Trâm đoan trang, lịch lãm quá, thuộc hạ của Tể tướng không dám
há miệng. Y bèn lủi thủi quay về tâu hết sự tình với chủ. Vầng trán của Tể
tướng chau lại, dãn ra mấy đêm ngày. Cuối cùng, viên quan hiếu sắc, tàn
bạo bèn nhờ bà mối giỏi nhất kinh thành đến gặp Thục Trâm với cái lễ làm
quen gồm mười lạng vàng và mười cây lụa Thiên Vân. Loại lụa này các
tiểu thư con quan ngũ phẩm trở xuống cũng chỉ dám nghĩ tới trong mơ. Kết
quả là như giữa mùa đông giá rét căm căm, Thục Trâm dội cho bà mối một
thùng nước: "Tể tướng đồng môn với người đẻ ra chồng tôi. Con gái út của
Tể tướng chạc tuổi tôi. Mua tôi vè làm thiếp có khác gì bố lấy con làm vợ.
Là quan đầu triều, Tể tướng không biết xấu hổ hay sao?". Bà mối giỏi nhất
kinh thành bẽ mặt ra về nói lại câu nói của Thục Trâm cho Tể tướng nghe.
Ông ta tức tím mặt, ức thối ruột. Chẳng bao lâu sau, Tể tướng biết tin Thục
Trâm vào làm gia sư quan Tổng đốc dạy dỗ Kim Phụng. Ông ta nghĩ xấu về
quan Tổng đốc: "Lẽ nào lão Tri huyện lại sợ viên Tổng đốc hơn sợ ta? Thôi
được, rồi xem kẻ nào cười, kẻ nào khóc …"
Qua một đêm suy ngẫm, ngài Tri huyện thấy sự lo xa của con không thể
xem nhẹ. Để lo cho con gái, thân phụ Thục Trâm dành một số bạc gửi vào
nhà một người thân ở chợ Hải Đông dặn Thục Trâm lúc có chuyện chẳng
lành tới đó lấy bạc, không về nhà nữa.