con đường biển, cùng trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm uỷ ban
thống nhất trung ương, đến gặp anh em và trực tiếp giao nhiệm vụ. Nhiệm
vụ của đội thuyền khi trở lại Nam Bộ là: báo cáo với Khu uỷ chủ trương
của Trung ương về việc đưa vũ khí vào Nam Bộ. Nhưng muốn như vậy,
phải có bến bãi để nhận hàng. Có ba phương án trong việc tổ chức xây dựng
bến bãi:
1. Lấy các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà làm căn cứ
lâu dài để xây dựng các hầm cất giấu hàng. Chuẩn bị các đội tầu thuyền để
tiếp tục chở hàng vào đất liền.
2. Lấy khu vực Hòn Chuối và cửa sông Bãi Hấp để làm chỗ sang hàng hoặc
thả hàng xuống biển. Lợi dụng khu vực này nhiều ngư dân ra đánh cá để trà
trộn nhằm bí mật vớt hàng lên rồi đưa vào bờ.
3. Lấy các cửa sông khu vực Cà Mau làm nơi chuyển hàng vào. Song đây là
phương án dự phòng nếu 2 phương án trên không thực hiện được.
Đồng chí Bông Văn Dĩa phải học thuộc lòng chỉ thị của Trung ương và
nhiệm vụ của chuyến đi, cùng một số mật danh để liên lạc với Trung ương
khi cần thiết.
Tuy thuyền trở về không hề có một viên đạn, một khẩu súng, song anh em
rất phấn chấn vì rõ rằng cái quý nhất lúc này không hẳn chỉ là mấy tấn vũ
khí mà là chủ trương của Đảng được truyền đạt tới Miền Nam, đặng mở con
đường trên biển nhằm có hàng trăm, hàng ngàn tấn vũ khí. Cuộc chiến đấu
còn lâu dài!
Mọi giấy tờ hợp pháp như giấy thông hành, căn cước, giấy làm ăn của ghe
thuyền cùng lương thực, thực phẩm, dầu mỡ được đoàn 759, Ban Thống
nhất Trung ương và Tổng cục Hậu cần lo chu đáo, đầy đủ.
Ngày mồng 5 tháng 4 năm 1962, đoàn 759 đưa sáu anh em từ Hà Nội vào
Quảng Bình. Sau khi kiểm tra lại một lần nữa thuyền, máy, đêm mồng 10
tháng 4 năm 1962, chiếc thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng
nam. Bốn ngày sau, 14 tháng 4, thuyền đến vùng biển Nha Trang, cách bờ
chừng 150 hải lý thì gặp hai tầu Mỹ từ Phi Líp Phin chạy về. Chúng cho tầu
chạy vòng quanh, cách thuyền mấy chục mét. Và cứ vậy quần đảo cho tới
14 giờ. Nhờ bình tĩnh xử lý, đóng vai những dân chài ra khơi đánh cá bị gió