phượng, nay thuộc địa phận trường Chu Văn An.) dàn hàng ngang lao vút về phía lâu thuyền. Những chiếc thuyền dài thon mình trắm,
mũi và lái đều cong lên và có trạm, vẽ hình đầu rồng, đuôi rồng. Mỗi bên mạn thuyền có hai chục tay trải. Mỗi trãi thủ nắm xuôi một chiếc
dầm, nom tựa hình mái chèo. Trước mỗi mũi thuyền có một người chỉ huy, mặc quần lụa đỏ, quấn xà cạp đen đến tận đầu gối, áo đỏ nẹp
xanh, ngang bụng thắt một dải lụa màu mỡ gà kết múi buông xuôi bên hông trái. Hai tay cầm hai lá cờ đuôi nheo đỏ và vàng phất theo
nhịp trống. Người nhấp nhô cùng hai cánh tay dang rộng ra với hai lá cờ như sắp bay lên. Giữa khoang thuyền kê một chiếc trống cái.
Người đánh trống vấn chiếc khăn đầu rìu màu đỏ, mình trần, vừa gõ trống vừa múa quanh tang trống, cùng với người phất cờ hòa chung
một nhịp đẩy chiếc thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Hàng trăm thuyền đua sức đua tài. Cảnh tượng diễn ra thật là hào hùng, khiến mọi
người nhớ lại trận thủy chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng hồi mấy năm trước.
Tất cả các thuyền khi lướt qua thuyền ngự - Các trải thủ đều lấy đà từ xa, để sao cho khi qua lâu thuyền, thuyền đua chỉ lướt đi, mọi
người trên thuyền đều trong dáng dấp ngả về phía trước, như đang gắng bơi, kỳ thực tất cả đều bất động, mặt hướng về phía thuyền
ngự, tạo ra một không khí tĩnh lặng và trang nghiêm đến kỳ lạ. Bỗng xuất hiện ba chiếc thuyền như từ đáy hồ vọt lên. Những chiếc
thuyền này lướt như bay. Mỗi bên mạn thuyền có năm chục tay chèo. Mỗi mái chèo gắn với một cọc chèo cố định. Các thủy thủ cũng bổ
chèo theo nhịp trống. Vì là thuyền chiến, nên mạn thuyền cao, chắn lút đầu thủy thủ. Trên mỗi thuyền cũng có người phất cờ, đánh trống
như các thuyền dân. Ở thuyền đi trước, thấy có hiệu cờ súy, và có tá thánh thái sư thượng tướng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đứng
sau người phất cờ. Thuyền thứ hai có điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đeo thanh trường kiếm, dáng dấp uy nghiêm. Thuyền
thứ ba có phiêu kỵ thượng tướng quân Trần Khánh Dư. Các thuyền chiến chỉ tham gia diễu hành, cho tăng thêm phần uy nghi thượng võ
của ngày hội, chứ không tranh giải. Mỗi thuyền đều phải đua ba vòng hẹp trong lòng hồ, mỗi vòng ước độ mười lý. Thuyền đi theo hàng
cọc thưa thớt, trên mỗi cọc đều cắm một lá cờ đỏ chỉ đường.
Khi đoàn thuyền đua vừa đi khỏi, chiếc lâu thuyền to lớn cũng đi theo. Chỉ thấy tiếng nước vỗ ì oạp và con thuyền nhè nhẹ lao đi.
Không thấy một tay chèo nào, Huyền Trân lấy làm lạ lắm. Nàng khẽ ngoái đầu cúi nhìn xuống mạn thuyền tầng dưới, thấy các mái chèo
hối hả bủa nhanh rầm rập. Có lần công chúa đã nghe nói đến một thứ thuyền lưỡng tính, dùng cho các bậc vua chúa, nửa là chiến
thuyền, nửa là du thuyền. Chắc là loại thuyền này đây. Chiếc lâu thuyền lướt qua đầu đường Dụ tượng để tiến về phía Bãi bắn gần giữa
hồ. Trần Nhân tông nhìn con gái với vẻ trìu mến. Ông thương con sống trong cảnh mồ côi mẹ. Tiếp đó, ông lại xuất gia (Theo chế độ nhà
Trần, con đến tuổi trưởng thành thì vua cha nhường ngôi cho. Tuy nhường ngôi, nhưng mọi việc lớn trong triều đều do vua cha (tức
thượng hoàng) quyết định. Nhân tôn nhường ngôi cho con từ năm Quý tị (1293), tới năm Ất mùi (1295) thì xuất gia ở hành cung Vũ Lâm.
Đến năm Kỷ hợi (1299) thì vào Yên Tử tu khổ hạnh. Tuy nhiên, ông vẫn giám sát việc triều đình rất chặt chẽ.), thành thử mọi sự đều phó
mặc cho con tự lo, phó mặc cho bà Tuyên từ thái hậu coi sóc và điều hành nếp sống của hoàng gia. Nhà vua mỉm cười hỏi công chúa:
- Có vui không con?