mắt bao quát cả một lượt từ phía các quan đại thần tới hàng các nho sinh. Trong đám nho sinh nhiều người còn rất trẻ, khoảng độ mười
lăm mười sáu tuổi. Huyền Trân chú ý đến một người ngồi hàng đầu. Nước da sàm sạm, đôi gò má cao nhô lên, má hóp, trán giô, chỉ được
đôi mắt to tròn linh lợi, sắc sảo. Đôi mắt như toát ra hai luồng hào quang chói sáng. Chàng trai ấy ngồi hai đầu gối co lên quá tai. Cằm tì
giữa hai gối, nom chàng giống hệt dáng vẻ một con khỉ. Nàng thầm đoán: “Có lẽ người này là Mạc Đĩnh Chi, thiên hạ vẫn đồn đại đây”.
Huyền Trân đang mải mê quan sát sắc diện đám nho sinh, bỗng thấy quan Tư nghiệp giơ chiếc vồ bằng ngón chân cái, gõ vào núm một
quả chuông to bằng hai trái bưởi treo vào cái giá nho nhỏ. Tiếng chuông vừa dứt, quan thị độc cất giọng sang sảng đọc bài “Tống Sài
trang Khanh”. Đọc xong, quan Thị độc ngừng nhìn cử tọa. Cả học đường im phăng phắc.
(Nguyên văn bài thơ:
TỐNG SÀI TRANG KHANH
Tống quân qui khứ độc bàng hoàng Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương Nam Bắc tâm tình huyền phản bái Chủ tân đạo vị phiếm ly trường
Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân duệ Cộng xướng thù gian tích đối sàng Vị thẩm hà thời trùng đổ điện Ân cần ác thủ tự huyên lương Dịch
nghĩa TIỄN SÀI TRANG KHANH
Tiễn ông về nước tôi thật bồi hồi Ngựa xâm xâm trỏ lối đế hương Trạnh miền Nam Bắc, tâm tình như treo trên lá cờ đi sứ trở về.
Chủ khách say mùi đạo, cùng nhau chuốc chén biệt ly.
Nói cười vừa chốc lát, than ôi đã dứt áo chia tay.
Trong lúc ngâm nga xướng họa nhớ tiếc khi giường nằm đối diện.
Chưa biết ngày nào lại gặp nhau, Để nắm tay kể chuyện hàn huyên.)
Quan Tư nghiệp bèn cắt nghĩa xuất xứ của bài thơ. Ngài nói:
- Bài thơ này đức Chiêu Minh làm vào năm Nhâm ngọ (1282). Năm đó tình hình bang giao giữa Đại Việt ta với nhà Nguyên khá là
căng thẳng. Hốt-tất-liệt hết đòi vua ta sang chầu, lại bắt nếu không sang được thì đánh người vàng thế mạng đưa sang… Nhà Nguyên
tập trung binh lực ép ta đủ điều. Thượng hoàng lúc ấy bèn sai người chú họ là Trần Di Ái cầm đầu sứ bộ ta sang thương thuyết với nhà
Nguyên. Phò tá Trần Ái (tức là Trần Di Ái) còn có Lê Mục và Lê Tuân. Vua Nguyên bèn nhân cơ hội này phong cho Di Ái làm An Nam
quốc vương. Lê Mục làm hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm thượng thư. Lại sai Sài Thung lúc ấy là thượng thư bộ lễ làm chánh sứ, cùng năm