Trước tình trạng quốc phá gia vong này, người Do-Thái chỉ còn một
con đường : đó là phải đứng hẳn vào một phe đang tham chiến, dốc tất cả
lực lượng nhân sự và tài sản vào cuộc chiến, để rồi, sau khi cuộc chiến ngã
ngũ, sẽ nhân danh một quốc gia tham chiến mà đòi lại quê hương xứ sở của
mình.
Tất nhiên, việc Do-Thái đi với phe Thổ và Đức là một việc không thể
làm được, bởi lẽ đế quốc Thổ đã công khai hạ lệnh triệt hạ cho bằng được
tân quốc gia Sion tại Palestine và coi các tổ chức Do-Thái tại vùng Ả-Rập –
Syrie là phiến loạn. Người Do-Thái liền đứng hẳn vào phe đồng minh và
tham chiến cạnh các thế lực của Anh và Pháp. Nhưng thay vì trở nên những
binh sĩ của quân đội Pháp hay Anh như hồi đầu 1914, thì các cơ quan lãnh
đạo Do-Thái hạ lệnh cho tất cả các công dân của quốc gia Sion phải thành
lập các đoàn quân biệt lập, tham chiến cạnh các đội ngũ Anh và Pháp với
tánh cách đồng minh.
Toán quân Do-Thái được võ trang đầu tiên, bao gồm các phần tử di cư
từ Tel Aviv qua Ai-Cập, đã được huấn luyện nhanh chóng, nhờ căn bản bán
quân sự đã có của họ tại các Kibboutz. Đoàn quân này mang tên là « những
kẻ chăn lừa của Sion » (Corps des Muletiers de Sion). Chỉ huy tối cao của
toán quân này là Joseph Trumpeldor, vị sĩ quan Do-Thái độc nhất còn lại từ
thời quân đội Nga Hoàng và đã bị cụt một cánh tay tại trận Port Arthur khi
trước.
Đồng thời, những người Do-Thái tại Huê-Kỳ cũng thành lập vội vã
một quân đội Do-Thái, gồm những phần tử vừa trốn từ Palestine qua Mỹ.
Đoàn quân này mang tên là Đội Lê Dương Do-Thái (La Légion Juive) và
được ba sĩ quan còn trẻ chỉ huy là David Ben Gourion, Itshak Ben Zvi và
Zeev Jabotinsky.
Tại Anh-Cát-Lợi, hai tiểu đoàn quân tình nguyện Do-Thái được trang
bị theo kiểu bộ binh lục quân : đó là các tiểu đoàn 38 và 39 của quân đội dã
chiến Anh quốc.