có chứa atropine, hyoscyamine và scopolamine nữa. À, cả axít hipoclorơ.
Thông tin ấy có thể giúp được họ.”
Cô ghi chép nhanh và đi đến phòng các y tá để đọc lại thông tin trên rồi
quay về.
“Anh ấy có bị tấn công không? Bị xăm?” Rhyme hỏi. Rồi giải thích về
phương thức gây án của nghi phạm.
“Không. Chắc là anh ấy ăn phải nó đấy,” Rachel nói. Chị vuốt thẳng mái tóc
nâu đã lẫn vài lọn xám. “Trên đường đến bệnh viện anh ấy tỉnh lại một lát.
Anh ấy bị mất phương hướng nhưng vẫn nhìn vào tôi và có vẻ nhận ra tôi.
Mắt anh ấy liên tục đảo qua đảo lại lúc biết lúc không. Cơn đau thì thật kinh
khủng! Tôi nghĩ anh ấy đã làm gãy một cái răng, hai hàm anh ấy siết lại với
nhau ghê quá.” Một tiếng thở dài. “Anh ấy đã nói đôi điều. Đầu tiên, là anh
ấy đã ăn một cái bánh vòng với ít cá hồi, kem phô mai. Trong một nhà hàng
ăn nhanh ở Manhattan, ở trung tâm thành phố.”
“Rất khó có chuyện lẫn chất độc vào thức ăn của anh ấy trong một cơ sở
công cộng như thế,” Rhyme nói.
“Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng anh ấy còn nói điều khác nữa.”
“Đó là gì?” Sachs hỏi.
“Anh ấy gọi tên cô, Amelia. Rồi nói, “cà phê”. Hay “cà phê ấy”. Điều đó có
nghĩa gì không?”
“Cà phê.” Sachs nhăn nhó. “Chắc chắn là có. Ở hiện trường Belvedere có
một lính cứu hỏa đã đi vòng quanh với một hộp cà phê. Hắn ta mời cả hai
chúng tôi. Lon lấy một cốc. Tôi thì không.”
“Lính cứu hỏa à?” Rhyme hỏi.
“Không,” Sachs cau có nói. “Đó là Nghi phạm 11-5, mặc bộ đồng phục lính
cứu hỏa. Quỷ tha ma bắt! Hắn đã ở ngay trước mắt chúng em. Tất nhiên là