pháp, chủ yếu là từ các lĩnh vực bất động sản và liên quan đến bất
động sản, được xã hội thừa nhận, không bao giờ đòi phân chia hay
hoàn lại (cho dù có nhiều người “ấm ức” vì đã mua bất động sản
với giá cao).
Vì vậy, gánh nặng nợ mà những nhà đầu tư liều lĩnh đã nhận
cho các dự án đầu tư đang bị “đóng băng”, họ buộc phải tìm cách trả.
Dù sao, cũng có niềm an ủi là, khác với những người mua hay
nhà đầu tư nhỏ đã mua nhà bằng tiền túi, trách nhiệm trả nợ của
các nhà đầu tư – đại gia được giới hạn bởi phần vốn góp của họ
vào các doanh nghiệp; nếu các doanh nghiệp này không trả được nợ
thì các ngân hàng cũng không bắt họ bỏ tiền túi ra bù.
Trong khi đó, để ngăn chặn việc đổ vỡ dây chuyền gây nguy hại
cho nền kinh tế, nhà nước phải vào cuộc với các chương trình mua
bán nợ xấu, hỗ trợ các ngân hàng, các doanh nghiệp bất động sản.
Tiền của nhà nước cũng là tiền của dân – những người đóng
thuế. Vì vậy, về thực chất, người dân đã giúp các nhà đầu tư – đại
gia làm giàu trong những năm qua và, thông qua nhà nước, tiếp tục
giúp họ tháo gỡ các khó khăn nợ nần mà các doanh nghiệp của họ
đang mắc phải.
Soi vào các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, kể cả những doanh
nghiệp rất lớn, dễ dàng nhận thấy phong cách, văn hóa kinh doanh
gia đình đã và đang tồn tại trong hầu hết các doanh nghiệp.
Thẩm quyền quyết định đầu tư, kinh doanh dồn vào một số
ít người có quan hệ gia đình hoặc bạn bè thân tín; rất ít các doanh
nghiệp có hệ thống phân cấp thẩm quyền và chế độ kiểm soát
khoa học như ở các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước
ngoài. Một số doanh nghiệp có chế độ phân cấp trên giấy tờ,
nhưng trên thực tế được vận hành theo kiểu khác.