Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong những năm gần đây, tiến
trình cổ phần hóa diễn ra rất chậm chạp, kế hoạch cổ phần hóa
thường xuyên không hoàn thành, chủ yếu bị ách tắc do cơ chế. Các
quy định hiện hành về cổ phần hóa DNNN đặt nặng trọng tâm vào
việc định giá doanh nghiệp, làm sao mang về khoản thu tối đa cho
nhà nước, trong nhiều trường hợp quy định nhà nước tiếp tục
chiếm cổ phần chi phối (51% trở lên). Điều này có lợi về mặt
kinh tế cho nhà nước, nhưng khó cho doanh nghiệp và kém hấp
dẫn đối với dân là những người đầu tư.
Nhìn lại quá trình cổ phần hóa DNNN ở các nền kinh tế
chuyển đổi, có thể thấy các nước Đông Âu (Tiệp Khắc, Hungary, Ba
Lan, Bulgaria…) thực hiện việc cổ phần hóa DNNN được thực hiện
rất đơn giản, nhanh gọn, nhiều doanh nghiệp nhà nước nhỏ ở các
nước này thậm chí được “biếu không” cho người lao động theo các
tiêu chí do nhà nước quy định. Đến nay, ở các nước này hầu như
không còn DNNN hoạt động trong các ngành nghề kinh doanh
thuần túy, chỉ còn một số ít các DNNN trong các lĩnh vực hạ tầng,
công ích. Cách cổ phần hóa DNNN ở các nước Đông Âu giúp cải
thiện đáng kể hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, tăng nguồn
thu thuế, hình thành các thị trường chứng khoán rất nhanh, với
hàng hóa đa dạng, quy mô giao dịch lớn. Trong khi cách cổ phần hóa
DNNN ở Nga và các nước Liên-xô cũ đã tạo ra hàng loạt các đại gia tỷ
phú đô-la trong số những người giàu nhất thế giới thì điều này
hoàn toàn không xảy ra ở các nước Đông Âu, nơi tầng lớp trung lưu
đã và đang là động lực phát triển kinh tế – xã hội.
Quay trở lại vấn đề cổ phần hóa DNNN ở nước ta, trong tình
hình hiện nay, nên thúc đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN. Có
lẽ nên coi các mục tiêu tái cơ cấu sở hữu để các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả hơn, đóng góp ngân sách cao hơn, thu hút tiền đầu
tư từ trong dân nhiều hơn quan trọng không kém việc thu nhiều