Khái niệm “tài chính Ponzi” có nguồn gốc từ vụ lừa đảo của
Charles Ponzi vào năm 1920 ở Mỹ và là mô hình kinh doanh dẫn
đến những vụ sụp đổ tài chính chấn động thế giới như Enron,
WorldCom, gần đây là Madoff. Nó có thể xuất phát từ chủ ý lừa đảo
như trong vụ của Charles Ponzi, nhưng nhiều khi là kết cục của tình
trạng luẩn quẩn mà doanh nghiệp bị lâm vào do những sai lầm
không cố ý trong kinh doanh. Khi lợi nhuận làm ra không đủ trả lãi
vay hàng năm, tồi tệ hơn nữa là kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp
buộc phải vay tiền để trả lãi vay, mức lãi suất của những khoản vay
sau thường cao hơn so với khoản vay trước. Và nếu kết quả kinh
doanh năm sau vẫn không mang lại đủ lợi nhuận, họ tiếp tục vay
những khoản mới khác, cứ như thế cho đến khi doanh nghiệp bị
hút vào vòng xoáy gần như không có lối thoát: vỡ nợ.
Tại Việt Nam, số doanh nghiệp có lợi nhuận hàng năm trên 1.000
tỷ đồng không nhiều. Số doanh nghiệp có lợi nhuận trên 5.000 tỷ
đồng lại càng ít, có thể đếm trên đầu ngón tay. Vì vậy, giải pháp
phát triển kinh doanh sử dụng hàng chục ngàn tỷ đồng vốn vay chỉ
an toàn khi doanh nghiệp đạt siêu lợi nhuận với những điều kiện đặc
biệt thuận lợi. Còn nếu doanh nghiệp kinh doanh không dựa trên tài
nguyên, không độc quyền, đặc biệt là kinh doanh trong lĩnh vực nhà
nước kiểm soát giá (để thực hiện các mục tiêu xã hội) thì khả năng đạt
siêu lợi nhuận để trả lãi suất cho các khoản vay khổng lồ là rất
mong manh. Theo một số thông tin báo chí, do chính sách bình ổn
giá của nhà nước, chỉ riêng Quý I năm nay Petrolimex đã lỗ 2.600 tỷ
đồng. Điều đó cho thấy kinh doanh xăng dầu không phải là lĩnh
vực siêu lợi nhuận và không thể kinh doanh dựa quá nhiều vào vốn
vay được.
Cần lưu ý rằng rủi ro “tài chính Ponzi” của doanh nghiệp nhà
nước cao hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Thứ nhất, doanh nghiệp
nhà nước thường ít cẩn trọng hơn doanh nghiệp tư nhân trong các