xuống, đặt lên di cốt của Trương Duy Trí. Tôi và Vương Tiên Dao làm theo
cậu ta, lấy bùa Mô Kim và ngọc Văn Hương trên người xuống, vì ba món
đồ này vốn không thuộc về chúng tôi, nên để chúng đi theo chủ nhân của
chúng là tốt nhất.
Lúc này, con quái vật bên trong cửa đá chẳng biết là bị làm sao, gào rít
lên ầm ĩ, âm thanh vô cùng đáng sợ, như tiếng chuột kêu, lại như tiếng trẻ
con khóc. Cùng lúc ấy, luồng sáng chiếu ra từ tráp pha lê và dạ minh châu
lại càng rực rỡ hơn, cứ như một ngọn lửa nóng bỏng từ phía bên trong phun
ra. Sau đó, toàn bộ địa cung bắt đầu rung lên dữ dội, chẳng khác nào đang
xảy ra động đất.
Ba người chúng tôi không dám dừng lại thêm một giây phút nào, vội
túm lấy sợi dây thừng mà Trịnh Duy Tín thả xuống, dốc hết sức mình trèo
lên trên. Dọc đường, vách hang xung quanh liên tục có đất đá rơi xuống,
cái hang này có lẽ sắp sụp đến nơi rồi.
Sau khi chúng tôi bò ra từ trong hang động đó, trời còn chưa sáng hẳn,
phía đằng đông chỉ mới có mấy tia sáng lờ mờ ló dạng mà thôi, nhưng bình
minh cũng sắp đến rồi. Chẳng bao lâu sau, hang động mà chúng tôi vừa bò
ra khỏi đã bị đất đá lấp kín, còn cơn rung lắc thì vẫn chưa dừng lại. Tôn
Kim Nguyên thấy tình hình có vẻ không ổn thì vội vàng hét to: “Mau chạy
đi!”, vì toàn bộ núi Lương Vương sắp sụp xuống đến nơi rồi.
Ba người chúng tôi dốc hết sức lực chạy về phía trước, chẳng rõ là đã
chạy bao lâu, nhưng ít nhất cũng phải chạy được quãng hai cây số rồi. Tôn
Kim Nguyên chạy nhanh nhất, phát hiện ở phía không xa trước mặt có một
sườn núi thấp, bèn bảo chúng tôi chạy qua bên đó, nói rằng những nơi địa
thế cao thì sẽ ít phải chịu ảnh hưởng của động đất hơn.
Sau khi chạy đến sườn núi đó, chúng tôi đều đã cạn kiệt sức lực,
không sao chạy tiếp được nữa. Ba người chúng tôi cùng nằm ngửa trên mặt
đất, thở dốc không ngừng.