Vào thời nhà Lê, có một người nhờ sức khỏe và võ nghệ cao cường nên lập
công to với triều đình, được vua cho làm quan đại thần, lại được phong
tước quận công. Quận công còn được vua ban cho một làng ở Hải-dương là
làng Phú-thị để hưởng lộc và bắt dân phục dịch. Có quyền thế nghiêng trời,
lại được vua tin chúa cậy, nên từ ngày về tri sĩ, quận công rất hống hách với
dân trong vùng. Ai đi qua trước cửa phải cất nón cúi đầu hoặc xuống ngựa.
Ai hơi trái ý là đòi đến nọc cổ đánh ngay, bất kể người đó là quan hay dân.
Cho nên cả một trấn chẳng ai dám ho he. Đối với dân làng Phú-thị, quận
công tuyên bố ngài sẽ rộng lượng tha cho tất cả sưu thuế, phu phen, nhưng
mọi chi phí trong gia đình ngài thì làng phải đài thọ; mọi việc trong nhà
ngài, làng phải chu toàn. Khi ngài muốn bất cứ điều gì, làng phải làm ngay
không được chậm trễ.
Không bao lâu quận công chết đi, để lại tám cậu con trai. Tuy không làm
quan như bố, nhưng các cậu lại được "tập ấm", ngôi nhất nhị phẩm. Cho
nên, trừ một cậu Tám mới mười hai, mười ba tuổi, còn thì cả bọn đều hống
hách lại có phần hơn cả bố chúng. Chúng ra lệ bắt dân làng phải chia phiên
nhau nuôi nấng và hầu hạ. Hàng ngày chúng không ăn cơm nhà, bắt các gia
đình phải cắt lượt làm cỗ cho mình ăn, hết nhà này sang nhà khác; hễ cần
ăn ở đâu thì bọn sai nhân đến cắm đòn xóc trước cửa báo cho biết trước
một ngày. Mỗi lần đến kỳ tế thần, làng phải dọn hai cỗ thịnh soạn, phải đặt
giường lèo trên thượng điện bên cạnh ngai thờ cho chúng ngồi ăn, trong khi
đó phải có ả đào múa hát đàn địch, chuốc chén "quỳnh tương", và ở ngoài
sân dân làng phải áo mão chỉnh tề, chiêng trống rộn rịp, làm lễ tế đủ ba
chầu như lễ tế thần, chúng gọi đó là "lễ tế sống".