study, history and rich personal experience. His profound understanding of
the national characteristics and its typical folk culture are derived from that
broad knowledge. That is also what brings the readers closer to the nation,
the people and their daily life, although, he never uses such term as
"struggle", "overthrow", "class exploitation", "landlords versus peasants"
which are often found in other works on Vietnamese folklore. "He has
demonstrated his firm grasp of this unique form of art without relying
solely any foreign theory. Nevertheless, it is always beneficial to be
exposed to other views and research method. "[17]
HY TUE
Vietnamese Studies Review, No2-1997 RMIT,
Melbourne, Australia, P. 105-111
[1]. Tập I và II, Nxb. Văn Sử Địa, Hà-nội, 1958. Tập III, Nxb Sử học, Hà-
nội, 1960. Tập IV, Nxb. Khoa học xã hội, Hà-nội, 1975. Tập V, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà-nội, 1982.
[2]. Trên Tập san Trường Viễn đông bác cổ (B.E.F.E.O), Paris, số 1-1964,
có hai bài: của Maurice Durand phê bình tập 1 Kho tàng truyện cổ tích
Việt-nam, và của Lê Văn Hảo, phê bình tập I và II.
[3]. Lê Văn Hảo. Đọc “Kho tàng truyện cổ tích Việt-nam”; B.E.F.E.O,
Paris, 1964, đã dẫn. Tạ Phong Châu. Đọc “Kho tàng truyện cổ tích Việt-
nam”; Tạp chí Văn học, số 2-1975 (ký tên Anh Phong).
[4].Viện Văn học xuất bản trọn bộ 5 tập in theo bản bổ sung chỉnh lý của
tác giả do gia đình lưu giữ. Các số trang trong bài của chúng tôi đều ghi
theo lần in này..
[5] . Nguyễn Từ Chi dịch, in ở cuối tập I, bản in 1993.
[6]. 7. Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên, Văn học dân gian, tập II; tr. 93,