Kênh Đô Giang chảy từ huyện Quán đến Thành Đô, dài hơn 60 cây số,
chẳng những có thể dẫn nước tưới lại còn điều tiết thủy lưu, thuận tiện việc
vận chuyển. Nước sông Bỉ Giang và Tiền Giang phục vụ đắc lực cho việc
tưới nước cho đồng ruộng, bởi thế Bỉ Giang còn gọi là Thành Đô Giang, cái
tên kênh Đô Giang cũng bởi thế mà có.
Kênh Đô Giang được hoàn thành, là cống hiến rất lớn cho sự phát triển
nông nghiệp ở bình nguyên Thành Đô, chẳng những giải quyết được nạn lụt
hàng năm, mà còn biến vùng Thành Đô xứ sở thần tiên nổi tiếng. Gia Cát
Lượng trong Long Trung Sách, có nhắc đến vùng đất nghìn dặm phì nhiêu
chính là nơi ấy.
Sau này kênh Đô Giang đã được mở rộng và tu bổ, trong đó có Thị Lang
Yển Tăng Kiến đời Đường rất nổi tiếng. Nghe nói năm đó, kênh Đô Giang
Lý Băng đã tưới cho vùng bình nguyên Thành Đô, song theo ghi chép của
tỉnh Tứ Xuyên, diện tích tưới nước đã đạt đến hàng vạn mẫu.
Do cha con Lý Băng có cống hiến lớn như vậy, đến nay ở Đông Trắc Sơn
bên sông Mân Giang vẫn còn hai miếu thờ để tưởng nhớ cha con Lý Băng.
Một điều khiến người ta ngạc nhiên là năm 1974, khi tu bổ lại kênh Đô
Giang, ở dưới lớp đất bùn sâu 4 mét rưỡi, tìm thấy một pho tượng đá thân
cao 2 mét 9, vai rộng 90 phân, nặng bốn tấn rưỡi, theo sự nghiên cứu của
các nhà khảo cổ học, pho tượng đá Lý Băng được tạc từ thời Hán Linh đế,
để trấn áp nạn lụt lội, qua đấy có thể thấy sự tôn kính của nhân dân đối với
Lý Băng.
Kênh Đô Giang được hoàn thành, Thục quận trở thành một địa phương giàu
có bậc nhất của Trung Quôc.
Tương truyền Tư Mã Thiên tác giả Sử ký là hậu duệ của danh tướng Tư Mã
Thố, bởi thế mà đối với sự hình thành và phát triển của đất Thục đã rất quan
tâm và thấu hiểu. Sử ký có chép: “Ba Thục đất đai phì nhiêu, sản vật phong
phú, nhất là gỗ, gừng, chu sa, đồng, sắt, tre trúc, kinh tế rất giầu mạnh”.
Song do địa thế từ Thục đến Quan Trung hiểm trở, phải dùng đường Sàn
Đạo nhỏ hẹp để vận chuyển, khiến nước Thục thành nơi dễ giữ mà khó
đánh, trong sự phát triển chính trị của Trung Quốc vẫn có phong thái độc
lập.