Dương (tỉnh Thiểm Tây) trong vùng Hán Trung, các quan văn võ đều đến,
cử hành nghi lễ trọng thể. Bởi thế sau khi đọc xong biểu văn, chấp lễ quan
dâng vương miện, ngọc tỉ theo nghi lễ, Lưu Bị đã thành Hán Trung Vương.
Vì sao không cử hành nghi lễ ở Thành Đô mà phải đến tận Miện Dương ở
gần tiền tuyến nhỉ? Có thể tin rằng như thế ít nhiều là để tượng trưng cho
việc kế thừa hương hoả vương triều nhà Hán! Năm xưa cơ nghiệp của Hán
Cao tổ Lưu Bang đã bắt đầu ở đấy, vì vậy với ý nghĩa chính trị đối kháng lại
Tào Tháo, Hán Trung quan trọng hơn Thành Đô.
Đương nhiên Lưu Bị cũng tự mình viết một tờ tấu biểu lên Hán Hiến đế,
bầy tỏ việc mình bị quần thần thôi thúc đành phải làm ra như thế. Ông ta
cũng nhắc lại việc cùng với Đổng Thừa mưu giết Tào Tháo, đáng tiếc việc
không thành, bởi thế nghĩ đến Hán tặc hùng bạo, quốc nạn chưa dứt, tôn
miếu đổ nát, xã tắc lung lay, tự mình đành thuận theo quần thần, nhận lấy
ấn tỉ để có quốc uy mà tôn phò thanh miếu, chẳng dám từ chối việc nhảy
vào nước sôi, lửa bỏng. Lại nữa, muốn tận lực chân thành khích lệ quân
thuận theo mệnh trời mà thảo phạt nghịch tặc, giữ yên xã tắc. Cũng tức là
muốn chính thức bầy tỏ với Hán Hiến đế, sẽ đem hết sức lực để tìm mọi
cách khôi phục nhà Hán.
Tuy trong doanh trại của Tào Tháo có không ít hậu duệ của phái Thanh
Lưu, như Tuân Úc, Thôi Đàm, Mao Giới, Tuân Du, nhưng do cuộc đấu
tranh chính trị giữa Tào Tháo và Hán Hiến đế ngày mỗi nghiêm trọng, lập
trường của những người ấy rất nhùng nhằng, cuối cùng thậm chí cùng
huyên náo với Tào Tháo. Lại nữa, không được như Lưu Bị, ở xa tận chân
trời, có thể dốc lòng mà chẳng sợ gì trói buộc, bởi thế mà họ công khai
giương lá cờ phục hưng nhà Hán, khiến trong trận tuyến của phái Thanh
Lưu, dưới sự lãnh đạo của Hứa Tĩnh thuộc phái Nguyên Lão và Gia Cát
Lượng thuộc phái Thiếu Tráng, đã xuất hiện ý thức chủ đạo của phái Thanh
Lưu.
Sau khi làm Hán Trung Vương, Lưu Bị đã trả lại triều đình cũ chức Tả
tướng quân, và ấn thụ kèm theo, lập A Đẩu (Lưu Thiện) làm Thái tử, trở về
Ích Châu lấy Thành Đô làm bản doanh của mình.