Trong chiến dịch bắc phạt lần thứ tư danh tướng Trương Cáp của nước
Ngụy đã phải chết do mưa tên của nỏ liên châu này.
Năm 1964, nhà khảo cổ học đại lục ở vùng công xã Thái Bình thuộc Ti
huyện gần Thành Đô đã khai quật được máy nỏ bằng đồng đượcchế tạo vào
ngày 30 tháng 2 năm Cảnh Diệu thứ tư thời hậu chủ Lưu Thiện, tức là sau
27 năm Gia Cát Lượng từ trần, thuộc loại nỏ liên châu mà Gia Cát Lượng
đã cải tiến.
Máy nỏ này, nếu dùng tay để keo dây cung thì không được,khi bắn ra phải
dùng chân đạp, sau khi kéo máy, lẫy nỏ sẽ hạ xuống, khi dây cung bật ra,
mũi tên sẽ bắn đi, do có bộ phận lấy chuẩn, nên rất trúng đích.
Bát trận đồ bao quát nhiều vấn đề, phần sau xin dành hẳn một chương để đề
cập, ở đây không nói đên..
Thực ra, đáng kể nhất vẫn là chuyện trâu gỗ, ngựa máy. Đối với nước Thục
bấy giờ bò ngựa không đủ, núi Tần Lĩnh nhiều đường sàn đạo, vận chuyển
lương thực chỉ đạo thợ cả Phổ Nguyên thiết kế ra. Sử liệu có chép: trâu gỗ
là loại xe một trục bốn chân, ngựa máy là loại xe hai trục, trục gắn liền với
bánh xe, chân là cột gỗ để đỡ. Cũng tức là nói, trâu gỗ và ngựa máy chẳng
phải là trâu hoặc ngựa cơ khí mà là loại xe có một bánh hoặc bốn bánh,
Trương Chú người đời Thanh khi biên soạn cuốn “Gia Cát vũ hầu cố sự” có
chép: “Trong nước Thục có một loại xe nhỏ, một người đẩy có thể tải đồ
nặng 8 thạch, phía trước hình như đầu trâu; lại có một loại xe lớn, có thể
dùng bốn người vận chuyển, chở được vài chục thạch, đại khái đấy là trâu
gỗ, ngựa máy mà Gia Cát Lượng đã phát minh”.
Song căn cứ vào sử liệu ghi chép, thời Gia Cát Lượng trâu gỗ chỉ có thể chở
được số lương thực cho một người dùng một năm, còn ngựa máy thì chở
được hơn nhiều . Từ đấy có thể thấy, những ghi chép trên là loại trâu gỗ,
ngựa máy qua cải tiến đã chở được nhiều hơn.
Loại xe nhỏ một bánh chế bằng gỗ, thực ra trước đó ở đời Hán, đã được dân
gian sử dụng gọi là “triển xa”. Trâu gỗ của Gia Cát Lượng là từ nhu cầu đặc
thù của đường núi khúc khuỷu và tương đối bằng phẳng mà thiết kế ra để
vận chuyển.