hợp các đạo quân của Liêu Hoá, Đổng Quyết, Trương Dực đóng cả ở Kiếm
Các đế ngăn cản đại quân của Chung Hội ruổi dài thâm nhập hơn nữa.
6. Thục Hán mất bởi A Đẩu.
Tháng 10, do chiến cục xấu đi, Lưu Thiện phái sứ giả sang Đông Ngô cầu
cứu, Ngô vương Tôn Hưu phái Đại tướng quân Đinh Phục đem quân đánh
vào Thọ Xuân, tướng quân Lưu Bình tập kết đại quân ở Nam Quận, chuẩn
bị tiến công Tương Phàn, phân tán binh lực Tào Ngụy để giảm bớt áp lực
cho Thục Hán. Ngoài ra lại phái tướng quân Định Phong, Tôn Dị từ Miện
Trung tiến vào để cứu viện cho Thục Hán.
Đặng Ngải dẫn quân truy kích Khương Duy đến Âm Bình, tuyển lựa kỹ
lưỡng một đội quân cảm tử, dự tính từ Giang Do đánh thẳng vào Thành Đô.
Đang lúc Gia Cát Tự cũng đến Âm Bình, Đặng Ngải yêu cầu cùng phối hợp
tấn công. Gia Cát Tự cho rằng như thế là rất mạo hiểm, không thể làm
được, cự tuyệt không đi, dẫn quân trở về Bạch Thủy, Chung Hội nghe tin,
viết thư trách cứ Gia Cát Tự nhu nhược, bãi cả binh quyền, sát nhập đội
quân của ông ta vào đội quân chủ lực của Chung Hội.
Đại quân Chung Hội tấn công mạnh mẽ vào Kiếm Các, Khương Duy dựa
vào địa thế hiểm trở mà cương quyết cố thủ, hai bên ở vào thế giằng co
đông cứng. Quân Tào Ngụy ngày một thêm khó khăn về vận tải lương thực,
thậm chí Chung Hội bởi thế mà có dự định rút quân.
Đặng Ngải đề nghị với Chung Hội: “Quân giặc tinh thần đã bị bẻ gãy, nên
nhân cơ hội này mà bẻ gãy triệt để. Nếu như từ Âm Bình theo đường nhỏ
Dương Đình, Hán Đức, tập kích Phù Thành, sẽ có thể vượt qua vùng Kiếm
Các hiểm trở hơn trăm dặm, mà vào được Thành Đô phía trong; lúc đó quân
giữ Kiếm Các không thể không rút về Thành Đô, Chung tướng quân có thể
vừa thế mà tiến công. Nếu như Khương Duy không rút quân về, quân giữ
Phù Thành ắt rất yếu, việc đoạt được Thành Đô cũng sẽ chẳng có gì khó”.