Hoàng chọn “Huế” (có nghĩa là hòa hợp) để đặt kinh đô. Ông mất năm 89
tuổi. Kế vị ông là con trai thứ sáu: 4 người con đầu đã chết, người thứ năm
làm quan ở đất Bắc. Người kế vị sinh năm 1563. Khi có mang, mẹ ông
cũng họ Nguyễn, một đêm chiêm bao thấy một người trao cho bà một tờ
giấy viết dày đặc chữ PHƯỚC, có nghĩa là Hạnh phúc. Sáng thức dậy thì
bà sinh con trai. Bà chọn chữ PHƯỚC đặt tên cho con, nhưng bà nghĩ rằng:
“Nếu ta chọn chữ này làm tên riêng cho con ta, thì chỉ duy nhất một mình
nó mang tên này trong gia đình. Nhưng nếu ta dùng chữ Phước làm tên
đệm, giữa họ và tên riêng, thì một vạn con cháu ta sẽ có thể cùng dùng tên
ấy; như vậy, sẽ có những một vạn ‘hạnh phúc’ cho dòng họ nhà ta.” Chính
là từ đó mà những người hoàng phái đều mang họ Nguyễn Phước. Các con
cháu của Nguyễn Hoàng: - Nguyễn Hoàng (1558-1613); - Chúa Sãi (Sãi
Vương) Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635); - Chúa Thượng (Thượng
Vương) Nguyễn Phước Lan (1635-1648); - Chúa Hiền (Hiền Vương)
Nguyễn Phước Tần (1648-1687); - Chúa Nghĩa (Nghĩa Vương) Nguyễn
Phước Thái (1687-1691); - Chúa Minh (Minh Vương) Nguyễn Phước Chu
(1691-1725); - Chúa Ninh (Ninh Vương) Nguyễn Phước Chú (1725-1738)
- Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) - Định Vương Nguyễn
Phước Thuần (1765-1777) - Gia Long Nguyễn Phước Ánh (1802-1820)
Gia Long, niên hiệu của Nguyễn Phước Ánh (1802-1820)
Nguyễn Hữu Luân, võ quan bậc 3, hạng nhất, cấm binh vệ úy; ông nội của
Nguyễn Hữu Độ - nhạc phụ của Đồng Khánh và Thành Thái.
“Hồi ký và tài liệu Á châu”: quyển 19, trang 101-103. Lưu trữ của Bộ
Ngoại giao Pháp, Paris.
Xem toàn văn bản Hiệp ước trong phần Phụ lục.
Văn bản Hiệp ước và lời tuyên bố được cất giữ tại Phòng Hiệp ước của Bộ
Ngoại giao Pháp, Paris.
Thư từ công văn tổng hợp của Nam kỳ: Quyển VII, trang 607 và tiếp theo.
Lưu trữ quốc gia, tại Paris.
“Triều đình Tây Ban Nha”: Tập 624. Lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp, Paris.
Thư từ và công văn tổng hợp của Nam kỳ: tập VIII, trang 510-511.
“Hồi ký và tư liệu Á châu”: Quyển 21, trang 64.