338
Chương III – Ba Pháp
5. Nếu nội tâm có sân, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có sân".
Nếu nội tâm không có sân, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không
có sân". Sân chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ
biết như vậy. Sân đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Và sân đã được đoạn trừ, tương lai không
sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
6. Nếu tâm có hôn trầm thụy miên, vị ấy rõ biết: "Nội
tâm ta có hôn trầm thụy miên". Nếu nội tâm không có hôn
trầm thụy miên, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không có hôn trầm
thụy miên". Hôn trầm thụy miên chưa sanh khởi, được sanh
khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Hôn trầm thụy miên đã
sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và
hôn trầm thụy miên đã được đoạn trừ, tương lai không sanh
khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
7. Nếu tâm có trạo hối, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có trạo
hối". Nếu nội tâm không có trạo hối, vị ấy rõ biết: "Nội tâm
ta không có trạo hối". Trạo hối chưa sanh khởi, được sanh
khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Trạo hối đã sanh khởi,
được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và trạo hối đã
được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ
biết như vậy.
8. Nếu tâm có nghi, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có nghi".
Nếu nội tâm không có nghi, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không
có nghi". Nghi chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Nghi đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị
ấy rõ biết như vậy. Và nghi đã được đoạn trừ, tương lai
không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh. Các pháp này,
này các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh.