ước lượng dựa vào tỉ lệ phụ thuộc. Cụ thể, nghiên cứu của Wang Feng và Mason
(2009) cho thấy, trong giai đoạn 1982 - 2000, tỉ lệ người sản xuất hữu hiệu/người
tiêu dùng hữu hiệu là 28% – bình quân mỗi năm tăng trưởng 1,3%, trong khi đó
GDP bình quân (tính theo PPP) giai đoạn này tăng trưởng 8,4%/năm. Điều này
có nghĩa là trong giai đoạn 1980 - 2000, nguồn lợi dân số thứ nhất đóng góp 15%
vào tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Giai đoạn 2000 - 2013, đóng góp của
nguồn lợi dân số cho tăng trưởng kinh tế là 4%. Đến năm 2050, tỉ lệ này chỉ bằng
85% của năm 2013, điều này khiến sản lượng bình quân mỗi năm của giai đoạn
2014 - 2050 suy giảm 0,45%. Do trong 20 năm tới, lực lượng lao động tại nông
thôn sẽ suy giảm nhanh chóng (tỉ lệ tăng trưởng giảm từ mức -1,6% trong giai
đoạn 2010 – 2015 tăng lên -3,8% trong giai đoạn 2030 - 2035) nên tính toán của
Naughton (2010) cho rằng, tỉ lệ tăng trưởng của nhóm người trong độ tuổi lao
động tại thành thị sẽ quyết định mức cung lao động của Trung Quốc. Nếu tỉ lệ
tăng trưởng của nhóm người này suy giảm 3% thì GDP Trung Quốc cũng sẽ suy
giảm khoảng 3% (Naughton, 2010).
Nghiên cứu về nguồn lợi dân số thứ hai Mason và Lee (2006) dựa trên lí
thuyết kì vọng về chu kì sống cho rằng, khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng
cao thì tỉ lệ tiết kiệm ở nhóm dân số trẻ sẽ có khuynh hướng duy trì ở mức cao.
Nhưng một kết quả khác của quá trình dân số già hóa có thể không phải là nâng
cao tỉ lệ tích lũy mà là đẩy nhanh chuyển dịch của cải – từ thế hệ này sang thế hệ
khác hoặc từ chính phủ đến hộ gia đình.
Có thể nhận thấy, nguồn lợi dân số thứ hai trên thực tế bắt nguồn từ nguồn lợi
dân số thứ nhất. Khi một quốc gia có tỉ lệ phụ thuộc thấp – đồng nghĩa với việc
sự cải thiện về hiệu suất của mỗi lao động sẽ tạo ra sự cải thiện với tỉ lệ lớn hơn
về GDP bình quân theo đầu người (Naughton, 2010). Sự cải thiện lớn hơn về
GDP bình quân – trong bối cảnh xã hội vẫn thiếu một hệ thống an sinh xã hội
toàn diện – có khuynh hướng làm gia tăng tỉ lệ tích lũy của cá nhân. Những điều
tra tại khu vực nông thôn Trung Quốc cho thấy, dân số già hóa có tác động rõ nét
đến tỉ lệ tiết kiệm của hộ gia đình. Theo số liệu điều tra có được, mặc dù tỉ lệ tiết
kiệm của hộ gia đình không có người cao tuổi tại nông thôn lớn hơn so với hộ
gia đình có người cao tuổi – điều hoàn toàn phù hợp với thuyết chu kì sống –
nhưng độ chênh lệch giữa hai tỉ lệ này đang ngày càng thu hẹp (WB, 2012). Cụ
thể, năm 2003, tỉ lệ tiết kiệm tại hộ gia đình ở nông thôn có và không có người