Bên cạnh những thành tựu hệ thống ngân hàng Trung Quốc đạt được trong
giai đoạn 2003 - nay, bài viết sẽ tập trung nghiên cứu về những rủi ro mà hệ
thống ngân hàng Trung Quốc phải đối mặt dựa trên số liệu từ năm 2003 đến năm
2012.
TỔNG QUAN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG
QUỐC
Theo CBRC, tính đến cuối năm 2012, hệ thống ngân hàng của Trung Quốc có
trên 3.800 tổ chức bao gồm 2 ngân hàng chính sách và Ngân hàng Phát triển
Trung Quốc, 5 ngân hàng thương mại cổ phần hóa, 12 ngân hàng thương mại cổ
phần, 144 ngân hàng thương mại thành phố, 337 ngân hàng thương mại nông
thôn, 147 ngân hàng hợp tác nông thôn, 1.927 hợp tác xã tín dụng nông thôn,
ngân hàng tiết kiệm bưu điện, 4 công ty quản lý tài sản ngân hàng, 42 ngân hàng
liên doanh, 67 công ty tín thác, 150 công ty tài chính của tập đoàn, 20 công ty
cho thuê tài chính, 5 công ty môi giới chứng khoán, 16 công ty tài chính tự động,
4 công ty tài chính tiêu dùng, và hơn 800 ngân hàng và hợp tác xã tín dụng nông
thôn quy mô nhỏ.
Ngay sau giai đoạn cải cách, hệ thống ngân hàng Trung Quốc rất tập trung, với
5 NHTM nhà nước cổ phần hóa chiếm 45% thị phần. Vốn của nhà nước vẫn khá
lớn: 71% (tại ICBC).
Hệ thống ngân hàng Trung Quốc là bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống tài
chính Trung Quốc, mặc dù thị trường vốn cũng đã có những bước phát triển rất
nhanh. Tổng nguồn vốn của hệ thống ngân hàng tại thời điểm cuối năm 2012 đạt
113 nghìn tỉ RMB, tăng 383% so với cuối năm 2003, tăng 151,6% so với cuối
năm 2007. Vốn tự sở hữu đạt 8,3 nghìn tỉ RMB, nguồn vốn huy động đạt 82,6
nghìn tỉ RMB, trong đó tiền gửi tiết kiệm chiếm 42,02%. Tổng dư nợ của các
ngân hàng đạt 68,5 nghìn tỉ RMB. Nợ xấu ở mức 1,07 nghìn tỉ RMB, chiếm
1,56% tổng dư nợ. Tuy tình hình kinh tế thế giới khó khăn nhưng trong giai đoạn
từ 2007 đến 2012, lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Trung Quốc vẫn duy trì ở
mức cao với tỉ lệ ROA, ROE tương đối tốt.
Bảng 3.1: Số lượng và thị phần của các nhóm ngân hàng ở Trung Quốc