vốn trong giai đoạn tiếp theo. Sự tồn tại của các ngân hàng trong bóng tối cũng
làm phức tạp chính sách tiền tệ, khiến cho việc kiểm soát sự tăng trưởng tín dụng
– hiện đã đạt gấp đôi GDP – ít hiệu quả. Trung Quốc đang mất kiểm soát đối với
hoạt động “Shadow banking” và đứng trước áp lực ngày càng gia tăng trong bối
cảnh người đi vay cố gắng đảo nợ đối với các khoản nợ ngắn hạn.
Hộp 3.1: Ngân hàng mờ
Khái niệm ngân hàng mờ (shadow banking) được nhà kinh tế Paul
McCulley đưa ra năm 2007. Ông cho rằng, ngân hàng mờ là khái niệm có
thể được dùng chủ yếu để chỉ các tổ chức tài chính tiền tệ chuyên hoạt động
trong lĩnh vực mà các nhà kinh tế học gọi là nghiệp vụ “chuyển đổi kỳ hạn”.
Các NHTM khi sử dụng nghiệp vụ chuyển đổi kỳ hạn đối với các khoản
tiền gửi ngắn hạn, thì mục đích là để huy động vốn cho các khoản cho vay
dài hạn. Các ngân hàng mờ huy động các nguồn vốn ngắn hạn trên thị
trường vốn nhưng sau đó dùng khoản vay này để mua các tài sản có kỳ hạn
dài hơn. Nhưng do các ngân hàng mờ không phải tuân thủ sự giám sát và
nguyên tắc chặt chẽ như NHTM, không thể vay tiền của FED trong những
tình huống khẩn cấp, cũng không có các khách hàng gửi tiền theo nghĩa
truyền thống, vì thế hệ thống tổ chức tài chính này nằm trong “vùng mờ”.
Ủy ban Ổn định Tài chính – một tổ chức được hình thành bởi các nền
kinh tế chủ chốt của thế giới và IMF – có định nghĩa rộng hơn về ngân hàng
mờ. Ủy ban này cho rằng nên coi ngân hàng mờ là một thực thể tài chính
nằm ngoài hệ thống ngân hàng chính thức chịu sự quản lí; thực thể này
đóng vai trò như một tổ chức tài chính trung gian và cũng có nghiệp vụ cốt
lõi của ngân hàng. 4 lĩnh vực trung gian/môi giới bao gồm: (i) chuyển đổi
kỳ hạn – huy động nguồn vốn ngắn hạn đầu tư vào các tài sản dài hạn; (ii)
chuyển đổi thanh khoản; (iii) đòn bẩy hóa – sử dụng các kỹ thuật như vay
vốn để mua các tài sản cố định, nhằm tối đa hóa lợi ích tiềm năng của khoản
đầu tư; (iv) chuyển đổi các khoản tín dụng rủi ro.
Nguồn: VCES tổng hợp
Sự can thiệp của chính phủ vào hệ thống ngân hàng