An tịnh, tự chế ngự,
Không dính nhiễm các pháp,
Biết sanh diệt của đời.
Vợ của ngài nghĩ rằng: 'Vị Trưởng lão này không để ý gì đến ta và con ta
nữa, ta không thể cám dỗ ngài' nên nàng bỏ đi.
Phẩm Hai
(XI) Cùlagavaccha (Thera. 3)
Ngài sanh là vị Bà-la-môn ở Kosambi, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài
xuất gia. Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau, Cùlagavachha
không theo phe phái nào, trung thành với lời dạy của bậc Ðạo Sư, phát triển
trí tuệ và chứng quả A-la-hán. Thấy sự tranh cãi các Tỷ-kheo là nguyên nhân
của sự thối thất, ngài hoan hỷ với thái độ không phe phái của mình và nói
lên bài kệ:
11. Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
Trong pháp Phật tuyên bố,
Ðạt được đạo tịch tịnh,
Hành dừng lại an lạc.
(XII) Mahàgavaccha (Thera. 3)
Ngài sinh ra trong thời đức Phật tại thế, làm con của Sammiddhi, một Bà-la-
môn ở làng Nàlaka, Magadha. Ngài xuất gia vì Sàriputta đã xuất gia, và
ngài biết Sàriputta rất sáng suốt. Sau khi chứng quả A-la-hán, và thọ hưởng
lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ để khích lệ các đồng Phạm hạnh tinh cần tu
tập:
12. Trí tuệ lực, giới hạnh,
Ðịnh, thiền lạc, chánh niệm,
Chỉ ăn những món ăn
Ðem lại quả tốt đẹp,
Ở đây, tham viễn ly,
Chờ đợi giờ mạng chung.