trưởng thành, nàng phải làm vợ một người Bà-la-môn còm, nhưng nàng thưa
với chồng rằng nàng không thể sống trong gia đình và được chồng bằng lòng
cho nàng xuất gia. Trong khi thiền quán, tâm tư vẫn chạy theo các đối tượng
ở ngoài. Do vậy, nàng kiên trì tự chế ngự và đọc lên bài kệ của nàng. Nàng
tinh tấn thiền quán cho đến khi nàng chứng được quả A-la-hán. Rồi hân
hoan nàng lập lại bài kệ:
11. Lành thay giải thoát Ni,
Ta thật khéo giải thoát,
Giải thoát ra khỏi được,
Ba vật còm và cong,
Thoát cối xay, cái chày,
Thoát ông chồng lưng còm,
Hỡi này giải thoát Ni!
Ta thoát được sống chết,
Những gì dẫn tái sanh,
Ðược nhổ lên tận gốc.
(XII) Dhammadinnà (Therì. 124)
Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Ràjagaha
(Vương Xá) và trở thành vợ của Visàkha, một người có địa vị trong xã hội.
Một ngày kia, chồng nàng đi nghe đức Phật thuyết pháp, chứng được quả
Bất lai. Khi Visàkha về, Dhammadinnà đưa tay ra đỡ chồng lên gác, nhưng
người chồng không nắm tay và không nói với nàng trong bữa ăn chiều. Nàng
hỏi chồng duyên cớ, người chồng nói không phải vì lỗi gì của nàng, nhưng
nay vì đã hiểu được Chánh pháp nên không còn những cử chỉ như trước nữa.
Người chồng trả quyền tự do cho nàng, một là ở lại gia đình người chồng,
hai là lấy tiền bạc rồi về lại gia đình cha mẹ, nhưng nàng không chịu, và xin
được xuất gia.Visàkha đưa nàng đến các Tỷ-kheo-ni trong một chiếc kiệu
vàng. Ðược cho phép xuất gia, nàng xin sống nhập thất, không muốn sống
chung đụng ồn ào và đi đến một tinh xá ở làng. Tại đấy, nhờ những thiện
nghiệp quá khứ, nàng chế ngự thân, miệng, ý, chứng được quả A-la-hán, với
Tứ vô ngại giải: Nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, biện
tài vô ngại giải. Rồi nàng đi về Ràjagaha (Vương Xá), với các Tỷ-kheo-ni.
Visàkha chồng cũ của nàng đến hỏi pháp, nàng như đã được diễn tả trong
kinh Tiểu Vedalla (M.i. 299), nàng trả lời rất rõ ràng đúng đắn các câu hỏi
của Visàkha và được đức Phật tán thán. Nàng trở thành thuyết pháp đệ nhất