định không cho tư tưởng chạy loạn khỏi đề tài thiền quán, ngài nói lên bài
kệ:
77. Trước tâm này lang thang,
Chạy chỗ này chỗ khác,
Chạy chỗ nó ưa thích,
Chạy chỗ nó vui sướng,
Nay ta chế ngự tâm,
Với như lý tư duy,
Như câu móc chế ngự,
Nhiếp phục con voi rừng.
Nhờ làm vậy, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán.
(LXXVIII) Mendasira (Thera. 12)
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình một thị
dân. Vì ngài giống con dê, ngài được tên là Mendasìra (đầu dê). Khi Thế
Tôn ở Sàketa, tại rừng Anjana, Mendasìra khởi lên lòng tin, xuất gia tu chỉ
và quán, chứng được sáu thắng trí, ngài có thể nhớ đến các kiếp trước:
78. Ta luân hồi nhiều đời,
Chạy dài tìm không được,
Với ta trong khổ sanh,
Khổ uẩn hay biến dạng.
Và bài kệ này nói lên chánh trí của ngài.
(LXXIX) Rakkhita (Thera. 12)
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Devadaha, trong gia đình
một quý phái Thích-ca, tên là Rakkhita, ngài là một trong năm trăm các
hoàng tử dòng họ Thích-ca được xuất gia để làm hộ chúng cho Thế Tôn,
theo quyết định các vua chúa Thích-ca và Koliya. Ðức Phật đã cảm hóa các
hoàng tử tuổi trẻ này với câu chuyện tiền thân Kunàla, một bài học về sự
nguy hiểm của dục vọng. Liên hệ bài học này với đề tài thiền quán, ngài
triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó suy nghĩ đến sự xuất ly