hưởng thọ các vật cúng dường ấy. Người thường dâng cho ngài thích thọ
hưởng, nhưng ngài không để ý những lời phê bình ấy.
Gần ngài có một vị Tỷ-kheo giả dối, lừa gạt quần chúng bằng cách giả dối
sống thiểu dục tri túc, do vậy được quần chúng tôn trọng. Rồi thiên chủ
Sakka (Ðế thích) thấy được sự giả dối này, đi đến Trưởng lão Vasabha hỏi:
'Thưa Tôn giả, kẻ giả dối kia sao lại làm vậy?'. Ngài trả lời với bài kệ, chỉ
trích kẻ ác bất thiện kia:
139. Trước nó giết tự ngã,
Sau nó giết người khác,
Họ khéo giết tự ngã,
Như chim mồi, mồi chim.
140. Không phải Bà-la-môn,
Với dung sắc bên ngoài,
Bà-la-môn chính thống,
Phải dung sắc bên trong,
Với ai, làm ác nghiệp,
Người ấy là hắc nhân,
Là chồng của Sujà.
Phẩm Hai
(CXXXI) Mahàcunsa (Thera. 20)
Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà), làng
Nàlaka, con của nữ Bà-la-môn Rùpusàri và em trai của Sàriputta. Ngài theo
gương anh, xuất gia, và sau một thời gian tinh cần tu hành, chứng đuợc quả
A-la-hán. Phấn khởi với quả chứng của mình và đời sống viễn ly, ngài nói
lên bài kệ:
141. Khéo nghe, nghe tăng trưởng,
Nghe tăng trưởng, phát tuệ,
Nhờ tuệ biết ý nghĩa,
Nghĩa được biết, lạc đến.
142. Hãy trú chỗ xa vắng,
Hãy sống, thoát kiết sử,