Trung Bộ Kinh – Tập 2
119
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng,
khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác;
khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu
tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên
lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh
hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này,
lựa một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi,
hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.
Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-
già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước
mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục
tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống
với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy
miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn
trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không
trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá.
Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân
vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm
cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất
thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do
dục sanh, với tầm với tứ.
Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm.