Trung Bộ Kinh – Tập 3
109
ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu,
chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy
không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc,
giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế.
Sariputta biết: "Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với
Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta diệt tầm và tứ,
chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Và những
pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tĩnh, hỷ, lạc, nhứt tâm,
và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả,
tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được
Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến
khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt.
Sariputta biết rõ như sau: "Như vậy các pháp ấy trước không
có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn
diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái,
không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không
hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "Còn
có sự giải thoát hơn thế nữa. Ðối với Sariputta, còn có nhiều
việc phải làm hơn thế nữa".
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly hỷ trú xả, chánh
niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc,
niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục,
thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta
an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi
chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú,
được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối
với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập,