Tương Ưng Bộ Kinh - Tập 3
67
chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham
được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ,
tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã
khéo giải thoát.
4-6) Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thấy thọ vô
thường là vô thường... tưởng vô thường... các hành vô
thường...
7) Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo thấy thức vô
thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy. Thấy
chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham
được đoạn tận. Do tham đoạn tận, nên hỷ được đoạn tận. Do
hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị
đã được khéo giải thoát.
X. Hỷ Ðược Ðoạn Tận (S.iii,52)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Hãy như lý tác ý sắc, này các Tỷ-kheo, hãy như
thật quán (samanupassati) sắc là vô thường. Này các Tỷ-
kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý sắc, như thật quán sắc là vô
thường, vị ấy yếm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được
đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham
đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được
khéo giải thoát.
4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý thọ... tác
ý tưởng... tác ý các hành...
5) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý thức,
như thật quán thức là vô thường, vị ấy yếm ly đối với thức.
Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ
được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị
ấy được gọi là đã được khéo giải thoát.