qua Luật Thu mua Hậu cần Đặc biệt để hỗ trợ cho các tập đoàn
chaebol tham gia vào các dự án HCI chiến lược với mục tiêu chuyển
hóa các tập đoàn này thành các doanh nghiệp quốc phòng. MoND
nhiệt thành phản hồi lại kế hoạch của Park và cuối cùng đã đặt ra vị trí
Vụ trưởng Công nghiệp Quốc phòng vào tháng 9 năm 1977 và tách
Cục Công nghiệp Quốc phòng thành ba cục riêng biệt vào tháng 12
cùng năm đó. Thậm chí, Park đã phát triển, hoặc cố gắng tỏ ra đang
phát triển, một chương trình vũ khí hạt nhân với mục tiêu xoay chuyển
lời hứa lúc tranh cử của Tổng thống Jimmy Carter về rút lui quân sự
và nhằm tạo được phương tiện phòng vệ riêng của Hàn Quốc (xem
Chương l6).
Cán cân quyền lực giữa hai nước trên bán đảo Triều Tiên bắt đầu
chuyển dịch về phía có lợi cho Hàn Quốc một cách rõ nét vào giữa
những năm 1970. Nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng với tốc
độ quá nhanh, vượt qua Triều Tiên về GNP bình quân đầu người vào
năm 1974 và nới rộng khoảng cách này lên đến 50% GNP bình quân
đầu người của Triều Tiên vào năm 1977. Về chi phí cho quốc phòng,
thay đổi cũng diễn ra đậm nét. Năm 1969, Hàn Quốc cung cấp chỉ
50% tổng nhu cầu quốc phòng bằng nguồn lực trong nước, đến trước
năm 1975, tỷ lệ tự cung cấp trong chi phí quốc phòng đã vượt qua
90%. Viện trợ quân sự gián tiếp của Mỹ kết thúc vào năm 1974 và
viện trợ quân sự trực tiếp chấm dứt vào năm 1978, tuy nhiên điều này
không hề đe dọa những tiềm lực của Hàn Quốc. Sau khi có được
chương trình viện trợ quân sự 1,5 tỷ đô-la Mỹ từ Hoa Kỳ vào năm
1971, Park đã cố gắng hơn để bòn rút từ những nguồn lực trong nước
nhằm duy trì các lực lượng vũ trang ở mức 600.000 cho đến 650.000
binh lính. Vào tháng 7 năm 1975, ông áp dụng thuế quốc phòng để hỗ
trợ một khoản gia tăng trong ngân sách quốc phòng từ 4% lên 5%
GNP cả nước bắt đầu từ năm 1976.
Chương trình nâng cấp vũ khí cũng có tiến triển trong suốt kỳ
nguyênyushin (xem Chương 8). Giai đoạn 1971-1976 chứng kiến khu