Dong-seon chịu để người của Jaworski ở Seoul thẩm vấn. Hoa Kỳ
cũng đồng ý cho Park Dong-seon quyền miễn truy tố trong chuyến đi
tiếp theo của ông đến Hoa Kỳ cho lần phỏng vấn tiếp theo. Tháng 1
năm 1978, các công tố viên Mỹ đến Seoul để thẩm vấn Park Dong-
seon. Tháng 2, Hàn Quốc chấp thuận những điều trong lời khai của
Park Dong-seon trước các ủy ban đạo đức của Hạ viện và Thượng
viện. Lời khai này thật sự là một kết thúc đáng thất vọng, Park Dong-
seon chỉ bác bỏ rằng ông là một gián điệp của chính quyền Hàn Quốc
và rằng ông “thỏa thuận” với Đại biểu Otto E. Passman để mua sức
ảnh hưởng cho Hàn Quốc.
Kim Tong-jo là một người khác mà Jaworski muốn triệu hồi.
Tuy nhiên Hàn Quốc bác lời đề xuất của ông vì nguyên đại sứ ở Hoa
Kỳ được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao. Quốc hội Mỹ cắt viện trợ
kinh tế 56 triệu đô-la Mỹ nhằm gây áp lực buộc Hàn Quốc phải trao
Kim Tong-jo cho các điều tra viên của Mỹ, nhưng đành thấy Hàn
Quốc kiên quyết hơn. Đại sứ Gleysteen chủ động làm trung gian giữa
Seoul và Washington, sắp xếp các giải pháp thỏa hiệp mà theo đó Hoa
Kỳ sẽ thẩm vấn Kim Tong-jo thông qua một bản câu hỏi trên giấy.
Như dự kiến, tháng 9 năm 1978 Kim Tong-jo bác bỏ mọi cáo buộc về
mua chuộc trong bản trả lời mà ông đã viết ra.
Các cuộc điều tra và điều trần quốc hội tiếp tục sau lời khai của
Park Dong-seon và Kim Tong-jo, nhưng quan sát của giới truyền
thông và sự chú ý của công chúng giảm đi rất nhiều. Vấn đề này
nhanh chóng bị chôn vùi. Bất chấp kết thúc đầy thất vọng của vụ bê
bối, Koreagate đã gây tổn hại đến sự minh bạch của Quốc hội Mỹ, đặc
biệt là các thành viên Đảng dân chủ. Park và chế độ yushin của ông bị
tổn hại hơn nhiều. Trong suốt tranh cãi Koreagate kéo dài hai năm,
truyền thông Mỹ tập trung vào mặt trái trong sự cầm quyền chính trị
của Park, khiến những người ủng hộ liên minh Mỹ - Hàn càng khó
lòng ngăn chặn được làn sóng rút quân và chủ nghĩa tích cực về nhân
quyền của Mỹ.