chức nhà nước, doanh nghiệp lớn, các nông dân nhỏ bé và giới trí thức
chính thống vào những năm 1970.
Ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa cũng được tuyên bố trên lĩnh vực kinh
tế. Park hình dung về hiện đại hóa chủ yếu trên phương diện phát triển
kinh tế, cần phải đạt được trên nền tảng tự lực và tự cường. Với khả
năng tự cường kinh tế, Hàn Quốc có thể hạn chế sự phụ thuộc vào Hoa
Kỳ, bắt kịp Triều Tiên và cuối cùng là Nhật Bản đồng thời tăng cường
sức mạnh quốc gia. Park muốn thỏa mãn điều kiện tiên quyết về sự tồn
tại, thịnh vượng và uy tín của đất nước bằng cách thiết kế chiến lược
trọng thương đẩy mạnh xuất khẩu và tạo lập con đường kinh tế dân tộc
chủ nghĩa để đi đến công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa
chất. Alice H. Amsden và Robert Wade đã đúng khi quan sát rằng, cả
sự chuyển dịch sang chiến lược xuất khẩu mở cửa trên cơ sở bình ổn
kinh tế và giải phóng thị trường từ năm 1963 đến 1966 của Hàn Quốc
cũng bị dẫn dắt bởi tinh thần, mục tiêu và các nguyên tắc trọng thương
của Park Năm 1967, Hàn Quốc tiến hành những biện pháp quan trọng
nhằm tự do hóa cơ chế thương mại bằng cách thay đổi hệ thống bảo hộ
thương mại từ “hệ thống danh mục được nhập khẩu” thành “hệ thống
danh mục cấm nhập khẩu”. Mặc dù vậy, các rào cản bảo hộ vẫn còn
cao khiến tỷ lệ tự do hóa nhập khẩu ở mức 61,3% vào năm 1978, kém
hơn nhiều so với Nhật Bản, nước từng gia tăng từ 40% vào năm 1960
lên 90% vào năm 1969, và thậm chí kém hơn cả hệ số tự do hóa nhập
khẩu đã đạt mức 90% của Đài Loan vào giữa những năm 1970.
Sự tồn tại chủ nghĩa bảo hộ bất chấp các hoạt động bình ổn hóa, tự
do hóa và thúc đẩy xuất khẩu có một phần nguyên nhân từ việc tiếp
diễn chủ trương công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Trái với
các lý thuyết kinh tế chính thống, việc chuyển hướng sang phát triển
xuất khẩu lại không hề kết thúc ISI ở Hàn Quốc. Ngược lại, Park xem
hai chính sách này như bổ sung lẫn nhau, vì với sự thiếu hụt nhu cầu
nội địa và sự kém phát triển của các ngành công nghiệp có liên kết
thượng nguồn, hạ nguồn thì bất cứ dự án ISI nào cũng cần phải được