thông qua chính sách đối ngoại, vào giữa những năm 1960 Park đã
tiến hành hai chính sách đối ngoại đầy tranh cãi và quân đội đều đóng
vai trò quan trọng trong hai chính sách này. Một là để thu được khác
nguồn quỹ bồi thường thiệt hại thông qua quá trình bình thường hóa
quan hệ ngoại giao với chính quyền thực dân từng chiếm đóng đất
nước, Nhật Bản, chính sách này đã khiến xã hội rơi vào hỗn loạn đến
mức chỉ quân đội mới có thể kiểm soát được. Chính sách thứ hai là
việc gửi quân chiến đấu sang miền Nam Việt Nam với tư cách là một
đồng minh của Hoa Kỳ nhằm phục vụ cho mục đích hiện đại hóa quân
đội, phát triển kinh tế và củng cố liên minh. Việc gửi quân chiến đấu
đã giúp Park kiếm được một khoản viện trợ ổn định từ Mỹ (xem
Chương 14 và 15).
Trong trường hợp bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản, quân đội
giữ vai trò của một người bảo vệ trung thành che chắn cho Park cùng
với chế độ khỏi những đợt biểu tình rộng khắp nổ ra vào tháng 6 năm
1964. Vì các trường đại học nổi loạn, Park đã phải đình chỉ các cuộc
đàm phán với Nhật Bản, tuy nhiên bên cạnh đó ông cũng ban bố thiết
quân luật để trấn áp phe đối lập hòng dọn đường cho việc nối lại các
cuộc thương thảo. Do đó bắt đầu từ “Sự kiện ngày 3 tháng 6”, lần đầu
tiên kể từ khi chuyển đổi sang chế độ dân sự, Park phải huy động bốn
sư đoàn bộ binh để bảo vệ vị trí tổng thống của mình. Sau khi quân đội
đã tái lập lại trật tự, Park điều động cảnh sát bắt giữ các lãnh đạo sinh
viên và yêu cầu lệnh bắt giữ từ tòa án. Khi tòa án từ chối, 12 thành
viên có vũ trang thuộc đơn vị không quân dưới quyền Sở chỉ huy
Quân đồn trú Thủ đô đã xông vào tòa án và buộc các vị thẩm phán
phải đưa ra lệnh bắt. Những người lính không quân cũng xông vào văn
phòng tòa soạn Dong-A Ilbo đe dọa các phóng viên và biên tập viên vì
những báo cáo quan trọng của họ về vụ đàn áp. Tổng cục Phản gián
(CIC), cơ quan tiền thân của Tổng cục An ninh Quân đội, cũng phải
dùng đến bạo lực để đe dọa các nhà báo ở Dong-A Ilbo và Hệ thống
Phát sóng Dong-A.