lực lượng cánh tả ở Hàn Quốc cuối cùng đã xảy ra, điều đáng chú ý là
Park không chỉ được tự do mà còn trở lại nghiệp nhà binh. Việc ông
được phục cấp có lẽ minh chứng cho sự quý trọng cao mà ông đã tranh
thủ được từ cấp trên của mình, mà vì đó họ đã phải chấp nhận rủi ro
đối với sự nghiệp của chính họ nhằm bảo trợ cho ông trong những giai
đoạn căng thẳng về ý thức hệ. Chủ nghĩa bè phái bên trong quân đội
Hàn Quốc cũng có lợi cho ông khi nó khuyến khích những người lính
tốt nghiệp từ Trường Sĩ Quan Tân Kinh và Phụng Thiên Mãn Châu
cũng như Học viện Quân sự Nhật Bản ủng hộ nỗ lực thu hút các đồng
sự của Park trong cuộc đấu tranh với những bè phái khác hoặc thậm
chí trong chính nội bộ. Điểm mấu chốt nhất vẫn là Park đã chứng
minh được lòng trung thành trong tư tưởng với Hàn Quốc và với các
thủ lĩnh quân đội, ban đầu bằng việc phản bội các đồng chí cánh tả của
ông trong cuộc nổi loạn Yeosu-Suncheon và sau đó là thoát thân về
phía nam ở Cục Tình báo của tổng hành dinh quân đội trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến, khi chiến thắng của quân đội Triều Tiên là gần
như không cần bàn cãi.
Khi quay lại binh nghiệp, Park - cũng như nhiều người khác cùng
độ tuổi - nhanh chóng thăng tiến, từ thiếu tá lên đến hàm đại tá vào
mùa xuân năm 1951. Trước đó, Park đã được đánh giá là sĩ quan có
năng lực do ông đã dự kiến được sự xâm lăng của Triều Tiên vào
tháng 12 năm 1949. Park được nhận Huân chương Công trạng
Chungmu vào tháng 12 năm 1950 vì sự dũng cảm trong Trận chiến
Trung-Đông, Huân Chương Công trạng Hwarang vào tháng 12 năm
1951 cho vị trí Giám đốc Trường Tình báo Quân đội và Huân chương
Công trạng Chungmu vào tháng 5 năm 1953 cho vai trò tư lệnh pháo
binh của Quân đoàn Hai. Sự nghiệp của Park cũng thuận lợi nhờ tình
trạng thiếu sĩ quan có trình độ trong quân đội Hàn Quốc khi lực lượng
này phải trải qua một quá trình tuyển quân ồ ạt trong cuộc chiến với
Triều Tiên. Sau khi trở thành chuẩn tướng, sự thăng tiến của ông chậm
lại, nhưng ở thời điểm quan trọng này, Đại tướng Paik Sun-yup, lúc